vhnt, số 57
19 September 1995
Trong số này:
+ tin văn nghệ
+ post 1 - thơ, Cánh Chim Phiêu Bạt, Đặng Khánh Vân
+ post 2 - thơ, Ngày Xưa, Cỏ Nhớ/Lộc Quy
+ post 3 - thơ, Xa Nhà, Tiến Đoàn
+ post 4 - thơ, Cành Hoa Dưới Trăng, Nguyễn Văn Diệm
+ post 5 - biên luận, Văn Hóa Việt Nam, Thái Nguyễn
+ post 6 - truyện ngắn, Nàng và Tôi, Phùng Nguyễn
Tin Văn Nghệ
Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước đã qua đời tại tư gia lúc 13 giờ 30 ngày 1-8-1995, thọ 80 tuổi. Ông là một nhạc sĩ nổi danh với những tác phẩm như TIẾNG XƯA, ÐÊM TÀN BẾN NGỰ,NGỌC LAN... Thời kỳ đầu của âm nhạc Việt Nam, cùng với Văn Cao, Thẩm Oánh, Nguyễn Xuân Khóat, Lê Thương.. nhạc sĩ Dương Thiệu Tước đã có nhiều công lao đóng góp cho nền âm nhạc Việt Nam thời kỳ phôi thai, và là người nhiều năm giảng dạy bộ môn guitar tại trường Quốc Gia Âm Nhạc (nay là nhạc viện thành phố). Ông đã đào tạo nhiều guitarist nổi tiếng như Ðỗ Ðình Phương (trước 1975) và nhiều học trò sau 1975. Ông nghỉ hưu năm 1980.
Sau đây là bài viết của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn để tưởng nhớ nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.
THUƠNG NHỚ ANH DƯƠNG THIỆU TƯỚC
Anh Dương Thiệu Tước đã mất. Tôi biết tuổi anh mất lúc này nhưng tôi không muốn nhắc đến. Bởi vì, tuổi của một con người nghệ sĩ là vô tận, vừa ngắn ngủi vô cùng, ở trong một giới hạn của trần gian.
Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước , anh chẳng màng đến nhạc sĩ hay không bởi vì đêm qua tôi đến phúng điếu anh và vợ anh nói rằng anh đã ẩn dật lâu rồi. Do đó đám tang vắng lặng và hầu như không ai biết để đến viếng. Cái không khí vắng lặng ấy ít khi thấy ở một đám tang của một nhạc sĩ nổi tiếng cỡ anh.
Anh đã sống một cuộc đời thầm lặng và muốn lãng quên cuộc đời băng cách xa lìa mọi hệ lụy của cuộc sống này để cưu mang một tình riêng dù đời có hiểu hay không. Anh sống như vậy cũng có một màu sắc riêng biệt của đời anh. Chắc chắn anh không muốn sắm sanh một mẩu đời riêng nhưng bởi vì anh là anh nên anh chỉ muốn nhắn nhủ với cuộc đời một chút tình ái nhẹ nhàng và ai yêu được thì yêu, không yêu thì cũng không phải âu lo gì lắm cho một cuộc sống chưa được dàn xếp cho đủ lòng mọi ngườị
Anh Dương Thiệu Tước ơi, anh ra đi và anh cứ tin rằng cuộc đời nhỏ bé này vẫn nhớ anh với những bài hát nồng nàn của anh đã hiến tặng cuộc đời. Cái gì mình đã cho thì không bao giờ mất, và mình đã mất đi thì cũng là một sự tồn tại khác.
Ðừng buồn nghe anh. Bởi vì đêm nay trời mưa to quá, như cách đây một tuần mưa ở Hà Nội lúc anh Văn Cao mất. Mất và còn chỉ là những cơn mưa của một thời tiết hơi bất thường của cuộc sống. Thôi kệ nó và anh cứ yên tâm nghĩ rằng cuộc đời vẫn có chúng ta và chúng ta, dù ở nơi nào, vẫn còn giữ một cuộc đời mà tình cờ chúng ta đã có lần hội ngộ, và cho đến giấc ngủ cuối cùng cũng còn giữ lại trong một trái tim duy nhất mà cuộc đời và cha mẹ đã tặng chúng ta.
Thương nhớ anh.
TRỊNH CÔNG SƠN
(TT 5-8-1995)
Cánh Chim Phiêu Bạt
Cánh chim phiêu bạt trong gió chiều
Tìm gì phương ấy - bờ quạnh hiu
Câu thơ, dòng nhạc, một tình yêu?
Thoảng cơn gió nhẹ, mộng tiêu điều
Cánh chim phiêu bạt trong gió chiều
Ðến bờ phương ấy - vẫn cô liêu
Giấc mơ, ảo mộng, đã phiêu diêu
Cánh chim phiêu bạt khóc giữa chiều
Hoàng hôn tại B.L.S
DKV
Ngày Xưa
Tôi chuyên văn lớp sáng
em chuyên toán lớp chiều
chưa bao lâu làm bạn
thì tôi đã biết yêu.
Người ta đồn con gái
học toán rất khô khan
bạn bè chê tôi dại
thương con gái khác ban.
Em khô khan như toán
tôi ướt át như văn
giải hoài hằng đẳng thức
phương trình biệt số âm.
Lần đầu tiên viết tặng
bài thơ tình em chê|
hình như hằng đẳng thức
giải được rồi số... quê.
10 năm rồi em nhỉ
cách biệt cả đại dương
gặp nhau cười nhung nhớ
thở học trò thương thương...
Cỏ Nhớ
Ðây là mình chơi tả chữ Màu và Sắc. Các bạn đọc cẩn-thận kẻo đứt tay nhé.
XA NHÀ
Tía chờ con, Ðỏ mòn đôi mắt
Hoàng hôn rồi, Vàng vọt đời ta
Bạc đêm thâu, Trắng cả mái đầu
Thanh liễu rũ, Xanh gầy mong đợi
Ánh chiều tắt, Mắt chàng đẫm-ướt
Dao xẻ tim, Bầu lệ thấm môi
Lời thương quê, Nói chửa cạn hơi
Lưỡi mặn đắng, Lam trời đêm tới (1)
DMT
(lão ngoan đồng)
17Sep95
(1) lưỡi lam = razor blade
Cành Hoa Dưới Trăng
Trăng sáng trong vườn... em biết không
Nghe chân ai bước... tựa tơ hồng
Đâu đây thoang thoảng... mùi hương phấn
Quay ngoảnh lại nhìn... em đứng trông
Em đứng khoe mình... với thủy tiên
Dưới ánh trăng trong... vẻ dịu hiền
Khe khẽ nâng cành... lan lên ngửi
Anh ngỡ mình vừa ... hôn nữ tiên
TTTN-KV
(09/16/95)
VĂN HÓA VIỆT NAM
Văn Hóa là linh hồn của một dân tộc! Văn Hóa phản ảnh đời sống, nguyện vọng, phong tục, tập quán xã hội và tư tưởng truyền thông từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chúng ta phải hãnh diện có một nền Văn Hóa vững bền sau hơn bốn ngàn năm văn hiến. Ðó là sự đóng góp, hy sinh của hàng vạn, hàng triệu bậc tiền nhân đã không ngần ngại dùng sinh mạng mình thay ngọn bút, dòng máu mình thay nét mực để vạch mặt chỉ tên những kẽ đã vì ích lợi cá nhân mà tiêu diệt tự do và tư tưởng của dân mình. Họ là những người Việt Nam yêu nước thương dân, dám hy sinh để bảo tồn lịch sử Văn Hóa. Chúng ta với dòng máu Lạc Việt luôn chảy trong thân thể và sẽ nối kết với những thế hệ mai sau. Và chúng ta là hiện thân của những anh hùng liệt vị, của những tiền điền. Cho nên chúng ta cần phải bảo vệ thanh danh của họ. Vì thế chúng ta có bổn phận phải bảo tồn Văn Hóa Việt Nam.
Nhưng thực tế chúng ta phải đau buồn nhìn nhận là hiệntại số người hoạt động cho nền Văn Hóa ở vùng đất mới này rất là hiếm hoi. Thậm chí ngay cả học đường, nơi qui tụ những mầm móng tốt đẹp cho thế hệ mai sau. Và đau buồn hơn hết khi có người coi đó là một thực trạng hiển nhiên phải có. Vì bận rộn của cuộc sống mới, vì việc làm, vì môi trường, vì đèn sách hay tại vì chúng ta có thành kiến sai lầm về khả năng đóng góp của chúng ta?
"Viết hay không bằng hay viết", và hay viết hiển nhiên trở thành viết hay. Người viết dưới đây không phải là người sống bằng nghề cầm bút. Nhưng thực hiện bài viết với tâm niệm là vai trò Văn Hóa Việt Nam ở nước ngoài rất là quan trọng. Vì Văn Hóa là món ăn tinh thần, là phương thức để giải bài tư tưởng và tính cách của dân tộc, là tiếng nói của những tâm hồn khúc ẩn, xót xa ly hương. Có phải chăng đó là những gì đã nuôi dưỡng người Do Thái trong hai ngàn năm qua?
Trong nền Văn Hóa Việt Nam, chúng ta rất hãnh diện có một di sản thật dồi dào phong phú và vô cùng qúi giá đó là Tục ngữ và Ca dao. Những người bình dân tầm thường đã đem tư tưởng, tâm tình của mình ra mà diễn tả bằng những câu văn vần rồi truyền miệng đi với nhau, trãi qua bao năm, tháng, các câu đó được thêm bớt, gọt giũa để rồi trở thành Tục ngữ và Ca dao.
Những câu Tục ngữ dùng diễn tả thói quen, có từ lâu đời. Tục ngữ có khi dùng để châm biến:
"Ăn chẳng có, khó đến mình."
Tục ngữ còn để khuyên răng người đời:
"Trâu chết để da, người chết để tiếng."
Có lúc người ta dùng Tục ngữ để diễn tả thói đời:
"Giúp lời, không ai giúp của, giúp đũa không ai giúp cơm."
Ca dao hàm xúc hơn Tục ngữ. Ca dao đưa tâm hồn chúng ta về quê hương, gần gủi với tổ quốc và dân tộc:
"Ðêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ
Buồn trông con nhện chăng tơ,
Nhện ơi ! nhện hỡi ! nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh-chếch sao mai,
Sao ơi ! sao hỡi ! nhớ ai sao mờ?
Ðêm đêm tưởng dải Ngân-hà,
Bóng sao tinh-đẩu đã ba năm tròn,
Ðá mòn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào-khê nước chảy vẫn còn trơ-trơ"
Văn Hóa là phong tục, tập quán, và còn là những câu hò, điệu hát êm đềm. Nó nồng nàng, nhưng kín đáo:
"Ai về, em gửi bức thư,
Hỏi người bạn cũ, bây chừ nơi nao?
Non kia, ai đắp mà cao?
Sông kia, biển nọ, ai đào mà sâu?"
Qua tình yêu trai gái, Ca dao đã được dùng để bộc lộ tâm tình, thật là nồng nàn và ý vị:
" Hôm qua, tát nước đầu đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen,
Em được thì cho anh xin,
Hay là em giữ làm tin trong nhà.
Áo anh sứt chỉ đường tà,
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.
Áo anh sứt chỉ đã lâu,
Mai mượn cô ấy vào khâu cho cùng..."
Thật là tài tình, khéo léo và duyên dáng. Người con trai ấy biết dùng cái áo "rách" để mà tỏ tình, nói lên thân thế và ý muốn của mình. Có khi người con trai và ngươì con gái đã có mối tương quan, người trai ấy có thể tỏ tình:
" Vào vườn trẩy quả cao non,
Anh thấy em giòm, muốn kết nhân duyên.
Má em có lúm đồng tiền,
Càng trông càng đẹp, càng nhìn càng ưa !"
Những lời ngọt ngào như thế, cô gái nào nghe được lời tỏ tình mà không thương cho được:
" Anh đà có vợ con chưa?
Mà anh ăn-nói gió đưa ngọt ngào.
Mẹ già, anh để nơi nao?
Ðể em tìm vào, hầu-hạ thay anh!"
Ngoài tình yêu trai gái, Văn Học Việt Nam còn diễn tả tình phu thê, chung thủy. Ðức hạnh, tiết liệt của người phụ nữ Việt Nam một mực chờ chồng:
" Hình đá ai đem đặt biển Ðông,
Giống hình nhi nữ dạng ngồi trông,
Da nhồi phấn tuyết phơi màu trắng,
Tóc gội dầu mưa giũ bụi hồng,
Ngày ngắm gương ô soi đáy nước
Ðêm cài lược tho chải trên không,
Ðến nay phỏng đã bao nhiêu tuổi,
Trạc trạc bền gan chẳng lấy chồng. "
(Tôn thọ Tường)
Luân lý, cang trường, hiếu đạo là tư chất, cốt cách của con người Việt Nam chúng ta từ xưa đến nay. Lúc nào cha mẹ chúng ta cũng thường nhắc nhở "Tiên học lễ, hậu học văn.". Lễ nghiã, hiếu đạo cũng được dân dang truyền tụng qua Ca dao:
" Trứng rồng lại nở ra rồng,
Hạt thông lại nở cây thông rườm rà
Có cha mẹ mới có ta,
Làm nên là bởi mẹ cha vun-trồng.
Thờ cha mẹ, phải hết lòng,
Ấy là chữ hiếu, dạy trong luân-thường.
Chữ đễ nghĩa là nhường,
Nhường anh, nhường chị, lại nhường người trên.
Ghi lòng, tạc dạ, chớ quên,
Con em phải giữ lấy nền con em... "
Tình yêu quê hương, tinh thần đoàn kết, bất khuất của dân tộc ta cũng được thể hiện qua văn thơ Việt Nam:
" Sầm Nghi Ðống nhục mà treo cổ chết
Sĩ Nghị kia vứt ấn chạy tháo thân
Trên sông Hồng xác giặc Thanh la liệt
Hai mươi vạn quân phút chốc tiêu tan
Ðống Ða kia thành địa danh lịch sử
Hạ Hồi, Ngọc Hồi máu giặc chảy thành sông
Thăng Long mùng năm cửa thành rộng mở
Ðón Quang Trung và những anh hùng... "
(Ðỗ Quang Trình)
Hoặc là:
" Chiều chiều ra đứng vườn sau
Trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều."
Không một nỗi buồn nào dai dẳng va ray rức bằng nỗi cách xa nguồn cội. Nhưng chúng ta phải làm gì đây để khỏa lấp nỗi vọng hương? Chúng ta không thể ngã lòng. Chúng ta không thể đồng hóa vào người ngoại quốc. Dù chúng ta là thành phần nào đi nữa, nhất định chúng ta vẫn là người Việt Nam. Một mái tóc nhuộm, một cái tên đổi vẫn không thay đi được cái giòng máu Tiên Rồng trong con người chúng ta. Thật là đau buồn và bất hạnh nếu ai tự chối bỏ quê hương mình. Chúng ta phải có một lý tưởng, nuôi một hy vọng, vạch một hướng đi cho Văn Hóa Việt Nam muôn đời bất diệt trong dòng máu lưu truyền của chúng ta.
Trở về với thực tại, Văn Hóa Việt Nam hiện đang bị đe dọa trầm trọng. Tại quê nhà cũng như ở hải ngoại. Anh em, bạn bè tại quê hương của chúng ta, họ không còn tự do diễn đạt tâm tình, nguyện vọng của họ. Sự sáng tác bị giới hạn và kiềm chế. Ở hải ngoại, chúng ta không có môi trường học hỏi và sáng tác. Con em chúng ta không được hấp thụ những tư tưởng thuần túy dân tộc, học hỏi và ảnh hưởng văn học tràng đầy tình cảm nồng nàn đôn hậu của nền Văn Hóa Việt Nam. Hiện tại nền Văn Hóa của chúng ta bị lung lay như ngọn đèn dầu treo trước gió. Bởi thế, chúng ta là những người may mắn được đến bờ tự do phải có trách nhiệm bảo tồn nền tảng Văn Hóa, phong tục tập quán của mình. Chúng ta có quyền tự do sáng tác nói lên tư tưởng, tâm tình của mình. Cho nên dù sống trong hoàn cảnh nào, bận rộn đến đâu chúng ta cần dành chút ít thơì gian tìm hiểu nguồn gốc của dân tộc để truyền lại thế hệ mai sau.
Vậy các bạn còn chờ gì mà không bắt tay hoạt động xây dựng một cộng đồng Việt Nam tốt đẹp.
Thái Quỳnh
Hi Chị Phạm Chi Lan và các bạn:
Gia nhập VHNT gần tháng rồi mà chưa có gì để đóng góp cả. Ðầu óc cứ đặc như... nhựa đường. Thôi thì xin lấy cũ làm mới, gởi lên một truyện ngắn viết đã khá lâu, gọi là... của ít lòng nhiều. Xin chúc PCL và các bạn sáng tác hăng.
PN
PS: Xin thứ lỗi nếu phần format không được ngay ngắn.
Nàng và Tôi
Tôi sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu (1). Mồ côi cha mẹ từ lúc còn nhỏ, tôi được một người chú họ mang về nuôi dưỡng. Chú giao cho tôi mấy con trâu. Cả làng đều gọi tôi là thằng... chăn trâu. Sau này mấy con trâu của chú tôi đạp phải mìn bẫy của mấy ông giải phóng chết hết, tôi chả còn trâu để chăn, buồn tình đi phá làng phá xóm, trộm ổi trộm xoài, người ta bèn gọi tôi là thằng... mất dạy. Khi vào lính, tính ngổ nghịch vẫn còn, bạn bè cùng đơn vị thấy tôi cứ ở mãi trong chuồng cọp làm bằng kẽm gai bèn đua nhau gọi tôi thằng... ba gai. Năm bảy mươi lăm mấy ông giải phóng đưa tôi vào tù, gọi tôi là thằng... ngụy. Ðến được Mỹ, người ta gọi tôi bằng cái tước vị nghề nghiệp - tạm bợ và nhiều vô kể - của tôi. Thằng... bồi, thằng... cu li, thằng... cắt cỏ, vân vân, và vân vân. Có một thời gian ngắn tôi sống chung với một người đàn bà, chả hiểu tôi đã làm gì nên tội mà một hôm cô ấy gọi tôi là thằng... phản bội rồi đuổi tôi ra khỏi nhà. Từ đó, tôi trở thành thằng... ma cà bông.
Rồi một hôm tôi gặp nàng. Nàng trẻ trung, xinh đẹp, ăn mặc hợp thời trang, nói năng dịu dàng. Nàng gọi tôi bằng ... anh. Ôi chao là ôi chao (2). Nàng đã gọi tôi bằng anh. Không những vậy, nàng còn bỏ công săn sóc cho tôi nữa. "Anh vào đây gội đầu," nàng bảo. Tôi theo nàng đi vào phía trong, nằm lên chiếc ghế dài mà phần tựa lưng có thể bật ngửa ra, lại có cả đồ gác chân. Tôi nằm duỗi dài trên đó, đầu lọt thỏm vào cái chậu sứ đựng nước, mắt mở trừng trừng nhìn lên trần nhà. Cả thân hình tôi run như run thần tử thấy long nhan (3) khi những ngón tay nuột nà có những chiếc móng dài sơn đỏ rực rỡ chà xát đầu tóc tôi. Nàng bỗng cất tiếng trách móc tôi một cách âu yếm, "Ðã bao lâu rồi anh chưa gội đầu?" Tôi thật tình không nhớ rõ đã mấy ngày rồi mình chưa tắm gội. Tôi chỉ biết đầu tóc mình hiện đang chứa khoảng nửa kí lô hợp chất gồm bụi, đất, và đủ thứ keo xịt tóc.
Gội đầu xong, nàng nâng tôi dậy, dìu tôi ra phía trước. Tôi bước những bước nhẹ tênh, đầu óc lâng lâng như người đi trên mây (4). Chả gì thì đầu tóc tôi cũng đã mất đi một khối lượng không nhỏ bụi và rác (5). Nàng choàng lên người tôi một tấm khăn lớn làm bằng những mảnh vải đỏ tím vàng sặc sỡ. Trông tôi oai vệ như một vị hoàng đế vừa đăng đàn. Tôi hỏi nàng c ó phải đây là lá cờ của một quốc gia mới thành lập hay không. Nàng chỉ cười, không trả lời. Tôi thích nụ cười rạng rỡ của nàng quá đi nên tôi tiếp tục hỏi nàng những câu hỏi ngu xuẩn khác để nàng có dịp cười mãi. Tôi hỏi nàng về những đồ vật trong tầm mắt tôi: những chiếc lược đủ kiểu, chiếc "tông đơ" nhỏ xíu, chiếc kéo sáng loáng, chiếc máy sấy tóc xinh xắn, chiếc áo dễ thương, mái tóc dài óng ả, chiếc mũi thanh tú, đôi mắt long lanh, cặp môi mọng đỏ, bộ ngực nhỏ xinh đẹp. Ồ không! Tôi không dám hỏi nàng điều đó, tôi chỉ nghĩ như thế thôi, tôi xin thề. Tôi ngồi cứng đơ trên ghế, nhìn nàng đôi chân thon bước những bước ngắn nhún nhẩy, hai cánh tay trần múa lượn chung quanh tôi như đang biểu diễn một vũ điệu của loài công (6). Những vụn tóc đen, tóc bạc, tóc muối tiêu lả tả rụng xuống, và ngắn dần trong tôi những sợi muộn phiền.
Cuối cùng rồi nàng cũng làm xong phần việc của mình. Tôi nhìn tôi trên vách (7), nơi có tấm gương lớn. Trong gương là một gã đàn ông mày râu nhẵn nhụi, áo quần... lôi thôi (8). Nàng cầm một chiếc gương nhỏ đặt vào phía sau gáy tôi rồi hỏi, "Anh xem có được không?" Tôi không buồn nhìn tôi nữa, tôi thì chả có gì để mà nhìn ngắm cả. Tôi thấy nàng trong gương, xinh đẹp, dịu dàng, âu yếm tựa vào chiếc ghế tôi đang ngồi. Tôi tươi cười và nàng cũng tươi cười như trong một bức ảnh... cưới. Tôi muốn nàng mãi đứng đó, mãi tươi cười, mãi tựa vào tôi. Trong đầu tôi bỗng dưng nảy ra một ước muốn kỳ quặc. Tôi mong một cơn băng giá khủng khiếp ập đến, ngay tại đây, ngay vào lúc này, làm đông cứng mọi thứ ở đây, người ngợm, chó mèo, cây cối, xe cộ, âm thanh. Nhưng lạnh bao nhiêu thì mới đủ? Mười độ dưới không? Chưa nhằm gì. Năm mươi độ dưới không? Có thể, nhưng chưa chắc ăn! Một trăm độ dưới không? Phải rồi, cơn lạnh một trăm độ âm sẽ làm đông cứng mấy người khách ở dãy ghế bên kia và những người thợ làm tóc, kể cả cái anh chàng thấp lùn tự nãy giờ vẫn nói oang oang như ở chỗ không người. Tôi lại mong trước đó những bông tuyết trắng nõn, phù phiếm sẽ bay vào, đậu lên áo nàng, biến nó thành chiếc áo cưới lộng lẫy; như vậy, chúng tôi sẽ có một tấm ảnh cưới tuyệt đẹp.
Chẳng có cơn băng giá nào cả. Ngoài kia trời vẫn nắng chang chang, người ta vẫn đi lại rộn rịp, tiếng nhạc xập xình vẫn vọng lại từ cửa hàng âm nhạc bên cạnh, và anh chàng thấp lùn vẫn nói oang oang. Nàng lại hỏi tôi, "Anh thấy thế nào?" "Ðẹp lắm. Ðẹp tuyệt vời," tôi trả lời. Tôi chắc cả hai chúng tôi đều cảm thấy thích thú. Tôi chắc nàng nghĩ là tôi khen nàng cắt tóc đẹp. Tôi chắc là nàng không nghĩ tôi khen nàng đẹp. Tôi không chắc. Tôi bước ra khỏi tiệm hớt tóc, chuệnh choạng như người say nắng. Mà có lẽ tôi say nắng thật. Trời đang nắng chói chang, và trong tôi cũng ... bừng nắng hạ (9).
Sau lần ấy, tháng tháng tôi lại đến tìm nàng. Ðúng vậy, tháng tháng. Bởi vì tôi chỉ cắt tóc mỗi tháng một lần. Cái ngân khoản chật hẹp mà tôi có được hàng tháng không cho phép tôi hoang phí hơn. Trước khi đến gặp nàng, tôi cẩn thận vuốt thẳng những tờ giấy bạc nhàu nát tôi kiếm được bằng những công việc cũng... nhàu nát không kém. Lúc trả tiền ở quầy, tôi luôn luôn kèm theo một món tiền "típ" nhỏ xíu (bửa ăn trưa hoặc gói thuốc lá hàng ngày của tôi đấy nàng ạ), sung sướng và cảm động nhìn nàng mỉm cười dịu dàng cám ơn tôi.
Và cứ thế giòng đời trôi lặng lẽ (10). Tôi bây giờ đã trở thành khách quen của nàng. Tôi biết cả tên nàng, Châu. Tên nàng tiên của tôi chỉ có mỗi chữ Châu cụt lủn vậy thôi sao? Tôi tưởng tượng ra đủ thứ tên có kèm "Châu" trong đó để gọi nàng. Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ... La Tinh, Châu ... Ðốc? Tầm bậy! Hỏa Châu, Trân Châu, Bảo Châu, Ngọc Châu? Cải lương! Minh Châu? Phải rồi, Minh Châu. Hạt dạ minh châu tỏa ra những tia sáng rực rỡ, lấp lánh soi đời tôi u ẩn.
Tôi còn biết được một số chi tiết về nàng. Nàng đến Mỹ từ một hòn đảo ở vùng cực Nam nước Việt, đảoPhú Quốc. Phú Quốc, nơi sản xuất loại nước mắm nhĩ độc đáo, chỉ cần nếm vào một chút đã muốn quên hết tên tuổi, nơi có những vườn tiêu xanh mướt làm tôi nhớ đến món cua lột xào tiêu xanh ngon đến nghẹn... ngào tôi đã có lần thưởng thức. Những hạt tiêu xanh tròn trĩnh, xanh mướt, thơm tho và Minh Châu mảnh mai, trắng trẻo, thơm tho. Tôi những muốn làm con cua lột để được... xào chung với nàng, nhưng chắc không xong! Tôi chỉ là con cua đá sần sùi suốt ngày lẩn trốn trong hang hốc, đưa ra những càng những ngoe lởm chởm. Hay giỏi lắm tôi cũng chỉ làm được con dã tràng. Con dã tràng tôi kềnh càng thô kệch cũng học đòi xây hư tình trên cát (11).
Nàng chưa lập gia đình. Tôi vái van cầu nguyện Trời, Phật, Chúa, Satan, và tất cả các đấng toàn năng khác mà tôi có thể nghĩ ra đừng cho nàng đi... lấy chồng. Nếu nàng lấy chồng, nàng sẽ lấy bác sĩ, nha sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, văn sĩ, thi sĩ... nhân sĩ. Hoặc nàng sẽ lấy kỹ sư, giáo sư, võ sư, vũ sư... thiền sư. Hoặc nàng sẽ lấy chủ hãng, chủ tiệm, chủ nhiệm, chủ bút... chủ tịch. Nghĩa là nàng sẽ không bao giờ lấy tôi. Tại sao nàng phải lấy tôi? Ngày thành hôn của nàng sẽ là ngày buồn thảm nhất đời tôi bởi vì những tia sáng rực rỡ của hạt dạ minh châu sẽ không bao giờ còn chiếu rọi đến tôi, và rồi chỉ còn lại trong tôi đêm dài một đời (12).
Tôi mãi lo sợ, mãi nguyện cầu. Cứ thế, mỗi tháng tôi có ba mươi phút hạnh phúc và ba mươi ngày âu lo. Nhưng tôi cũng đã mãn nguyện lắm rồi. Nếu tôi không lạc loài đến chốn này vào một ngày nắng trong, có lẽ sẽ chẳng bao giờ tôi gặp được nàng. Sẽ chẳng bao giờ còn nhớ đến món cua lột xào tiêu xanh. Sẽ chẳng bao giờ nếm được mùi hạnh phúc âm thầm. Và sẽ chẳng bao giờ dám mơ làm con dã tràng xấu xí. Cho nên, tôi cũng đã mãn nguyện lắm rồi. Who could ask for anything more? (13)
Phùng Nguyễn
04/95
Trích Dẫn:
1. Vũ Trọng Phụng, Giông Tố, Tiểu thuyết
2. Phạm thị Hoài, Chín Bỏ Làm Mười, Truyện ngắn
3. Hàn mặc Tử, Ðêm Xuân Cầu Nguyện , Thơ
4. Nguyễn Xuân Hoàng, Người Ði Trên Mây, Tiểu thuyết
5. lại Nguyễn Xuân Hoàng, Bụi Và Rác, Tiểu thuyết
6. Trần Diệu Hằng, Vũ Ðiệu Của Loài Công, Tập truyện
7. Túy Hồng, Tôi Nhìn Tôi Trên Vách, Tiểu thuyết
8. Tập Kiều
9. Tố Hữu, Từ Ấy, Thơ
10. Nguyễn Bính, Ông Lái Ðò, Thơ
11. Tác giả, Ðêm Nghe "Dù Nỗi Nhớ Có Muộn Màng", Tạp ghi
12. Lê Tất Ðiều, Ðêm Dài Một Ðời, Tiểu thuyết
13. Toyota Corp., Còn Ðòi Hỏi Gì Hơn Nữa?, TV commercial