vhnt, số 209
29 July 1996
Trong số này:
thư vhnt............................................Nguyễn Phước Nguyên
T h ơ :
1 - George Evans: Ði dạo trong vườn địa đàng ....Hồ Anh Thái dịch
2 - Lục bát cho một tuần .................................Trần Thuyên
3 - New Smyrna/ Em/ Ướt ............................................Ian Bui
4 - Lời tim ................................................Từ Ðông Nghị
5 - Tiếng đêm ....................................Nguyễn Hiện Nghiệp
6 - Quê hương là áo chị ........................................Cỏ Nhớ
7 - Sóng biển ....................................................Sao Băng
T i n T ứ c V ă n H ọ c :
8 - Giới thiệu sách báo trong tháng ...............Nguyễn T Dũng p/t
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Bên dòng suối nhỏ ...............................Nguyễn Tấn Hưng
Bạn,
Con đường nghệ thuật vốn nhiều ngã rẽ - hiện thực, siêu thực, lập thể... Con tim sáng tạo vốn nhiều giòng máu - quê hương, thân phận, tình yêu ...
Kẻ sáng tạo dâng hiến linh hồn qua tác phẩm. Người thưởng ngoạn đón nhận tác phẩm vào tâm thức bằng cảm xúc. Không một đòi hỏi nào, điều kiện nào được đặt ra từ kẻ hiến dâng hay người đón nhận. Nếu có, chỉ là những kỳ vọng đến từ mong đợi của đọc giả, những vươn lên từ rút tỉa kinh nghiệm của tác giả.
Cũng thế. Không có một đòi hỏi hay điều kiện gì để bước vào khu vườn sáng tạo và nghệ thuật. Không hàng rào ngăn chia ngoài, trong. Không luật lệ đóng khung sai, đúng. Tuy nhiên, khu vườn này sẽ không hiện ra trọn vẹn cho những người đến bằng những bước chân dọ dẫm, ngại ngần, nửa muốn nửa không.
Cầu vòng chỉ thành hình khi hội đủ sự kết hợp diệu kỳ, đúng mức giữa ánh nắng và hơi nước. Nếu không, chỉ là mống cụt.
Nét đẹp của huyền thoại Ngưu Lang - Chức Nữ đâu phải là tình yêu của hỗ Mà là hình ảnh của Ô Kiều được tạo thành bởi những con quạ, là giống chim tầm thường nhất trong mọi loài chim, mỗi năm chỉ một lần, thể hiện lời hẹn thề của cặp tình nhân.
Thế giới của sáng tạo và nghệ thuật -
Không đi, mà vẫn đến.
Không tìm, mà vẫn thấy.
Bằng bước vào tâm tình rộng mở.
Bằng hoàn toàn hòa nhập cảm quan.
Như một nhà thơ đã viết:
ai hỏi anh ngoài hàng dậu
lãng mạn lập thể siêu thực dã thú đa đa
tôi mở những trái cây vườn nhà
cử chỉ trữ tình tinh khiết
những bước đi văn nghệ chim sẻ
mùa ngói nâu dựng vực mắt nâu
tôi ru chim ngủ trong cổ họng
mặt trời kêu xuống thái dương những mầu ánh sáng thơm
tìm kinh ngạc
đời tạo câu cười thiên nhiên mai
hy vọng đứng ra ngoài ô ngục ngực bâng khuâng
lần gặp gỡ thứ nhất *
Nguyễn Phước Nguyên
* thơ Thanh Tâm Tuyền
Trong chiến tranh Việt Nam, George Evans đã từng làm y tá của không quân Mỹ. Hiện tại ông sống ở San Francisco, là tác giả của ba tập thơ được đánh giá cao: Ảnh hình đêm, Dao mắt và Những giấc mơ bất chợt. Ông đã được tặng nhiều giải thưởng, trong đó có giải thưởng của Quĩ hổ trợ tài năng quốc gia Mỹ và được chính phủ Nhật mời sang nghiên cứu thơ ca tại Nhật Bản trong hai năm.
"Ði dạo trong vườn địa đàng" (*) là một bài thơ văn xuôi dài với phụ đề: Bức thư gửi sang Việt Nam. Bài thơ này được lấy làm lời đề dẫn trong cuốn "Phía bên kia góc trời", một hợp tuyển văn xuôi của các nhà văn Việt Nam và Mỹ do Nhà xuất bản Curbstone Press ấn hành tại Mỹ năm 1995.
Đi Dạo Trong Vườn Địa Đàng (trích)
1.
Họ đang chuyện trò khi chúng ta bước vào vườn, hai người trẻ tuổi thầm thì qua bàn tay, những dải sương lững lờ trôi từ trên đỉnh núi bên trên cái đại dương sỏi mênh mông. Những hòn đảo dập dềnh trên lớp da vô cùng tận. Cái tinh thần không còn thể xác.
"Khoảnh khắc anh nhìn thấy gương mặt em - chàng nói - cứ như thể đang bước vào điện Ngàn lẻ một vị bồ tát."
Nàng chẳng hiểu chàng hàm ý gì, chẳng hiểu ra làm sao khi bước vào Sanjusangendo ở Kyoto tới lần thứ năm mươi mà nhìn ngàn ngàn lớp lớp những hình tượng đứng đó, chạm khắc, sơn vẽ, và thiếp vàng cái nhìn bình tĩnh mà bàng hoàng của sự giác ngộ, mỗi bên có năm trăm pho tượng cùng loại, to lớn hơn và đang ngồi, những cái đầu nhỏ gá buộc với mảnh da đầu nhắc nhở một thời đầu họ bị vỡ tung trong kinh hoàng trước cái ác trên thế gian này, như thể đầu chúng ta bị vỡ tung trong chiến tranh, cho dù chúng ta không khoác lịch sử lên mình ở những nơi có thể mục kích được. Mỗi pho tượng có hai chục đôi tay tượng trưng cho ngàn tay, những đấng giấc ngộ này chọn con đường ở lại trần gian, không chấm dứt vòng luân hồi sinh tử mà nhiều người tin rằng chúng ta phải trải cho tới khi gặp chính đạọ Họ đứng bên lề niết bàn để ở lại cứu giúp tất cả chúng ta cùng đi qua. Thật dễ dàng nghĩ rằng họ là những kẻ ngớ ngẩn chứ không phải là thánh thiện.
Nhưng mỗi bàn tay giữ hai mươi lăm thế giới đã được cứu vớt, và bởi vì mỗi hình tượng có thể nhân lên thành ba mươi ba hình tượng, hãy hình dung xem ba mươi ba ngàn thế giới họ đang giữ, thực sự có bao nhiêu nỗi thống khổ, rồi nhân chúng lên với ngàn lẻ một mà tưởng tượng xem làm sao đứng được trong một ngôi chùa cổ bằng gỗ, cả tấm lòng từ bi lấp lánh, ngay cả đối với những kẻ hầu như chẳng tin gì như chúng tôi.
Nghe nói rằng, mà đó là sự thật, nếu tìm kiếm trong ngàn gương mặt, bạn sẽ tìm được gương mặt của người đã biến mất khỏi cuộc đời mình.
Nhưng cô gái trong vườn đã thấy chán và nhìn qua vai người tình lên những bông hoa quấn quít. Rồi chàng cũng nhìn theọ Câu thần chú đã mất hiệu nghiệm.
Chúng ta già hơn. Giữa chúng ta có rất nhiều cuộc đời hoài phí đến mức chỉ còn cái đẹp mới có nghĩa. Song chúng ta giống họ. Chúng ta. Họ đúng như cái tồn tại giữa đất nước của chúng tạ Một người nói, một người ngoảnh đi. Cả hai cùng nói, cả hai cùng ngoảnh đi.
3.
Thời Việt Nam, chúng tôi gọi như vậy, bởi vì cái tên ấy không chỉ có nghĩa là một địa danh - đó là một thời đại, một hình mẫu, một kỷ niệm, một sai lầm - thời Việt Nam, mọi thứ vẫn như bây giờ đối với những ai còn trẻ và nghèo ở đây. Chúng tôi đứng chầu chực khắp nơi. Không công ăn việc làm, đó là lúc bắt đầu thời của những người đàn ông chúng tôi, chúng tôi đang tìm cách tự khẳng định, hoặc tìm một con đường để đi. Một số là người yêu nước, còn nhiều đứa là con trai những người đã tham gia một cuộc chiến tranh và khi trở về được ngưỡng mộ. Tôi không còn nhớ một kẻ đâm thuê chém mướn nàọ Chúng tôi đang vượt qua ngưỡng cửa, bắt đầu tự lừa dối mình về mọi thứ, mà bởi vì chu"ng tôi đã ở đó, đầy tham vọng hay tuyệt vọng, khi họ đưa cho vũ khí, chúng tôi nhận. Chúng tôi không hiểu cái bản chất rối lọan của vũ trụ, vì vậy những con người bị rối loạn phải sắp xếp nó, và nếu họ tìm được anh còn trẻ trai, thì anh sẽ giúp họ.
Tôi đau khổ nhưng không tội lỗi. Buồn nhưng không hổ thẹn.
Ðiều đó không có nghĩa là tôi thiếu cảm xúc. Không có nghĩa là ban đêm tôi ngủ được, hoặc ban đêm tôi không bị vã mồ hôi. Ðiều đó không có nghĩa là dễ sống.
Ở nhiều nơi trên đất nước mình, tôi bị coi là kẻ điên.
4.
Nghĩ theo cách của đất nước bạn, tôi có thể nói tôi là con của những người dân quê. Chúng tôi làm việc và hưởng thụ bằng tất cả những gì mình có. Tôi học được cách kính
trọng con người qua việc họ làm chứ không phải qua địa vị. Giải thích theo cách của đất nước tôi, có nghĩa là: nếu ở đây tôi không có kẻ thù thì tôi đã phải chọn con đường sống tha hương.
5.
"Chúng tôi cần hài cốt. Chúng tôi cần toàn bộ hài cốt." Bạn sẽ nghe thấy câu nàỵ Người tốt sẽ nói vậy. Tất cả họ là người tốt. Họ nói vậy. Họ nói: "Chúng tôi cần hài cốt." Và họ hàm ý như vậy, họ hàm ý điều họ nói. Họ mang điều đó vào giấc ngủ, vào con cái mình, vào phòng bỏ phiếu. "Chúng tôi cần hài cốt. Ðó là cái chúng tôi cần. Chúng tôi không cần những hồn ma. Ngươi hãy giữ lấy những hồn ma. Chúng tôi không cần. Chỉ cần hài cốt."
Những hồn ma của ngươi đang làm cho chúng tôi phát điên.
6.
Trên đất nước mình, chúng tôi đã đổ lỗi. Sau chiến tranh, những kẻ đã đi chiến trường trở thành cùng đinh. Không phải là những kẻ khởi chiến, không phải là những kẻ tiến hành cuộc chiến. Và bởi không phải tất cả mọi người đều có thể tha thứ cho sự chối bỏ và ký ức, nhiều người tự chết bằng tay mình hơn là vì mìn và đạn của các bạn. Giờ đây trong chúng tôi có nhiều vụ tự sát hơn là những cái tên trên đài tưởng niệm ở thủ đô, như một cái vết gạch ngang gẫy gập trước phong cảnh thiên nhiên, cái vết sẹo sẽ trải dài cả thành phố nếu thống kê đầy đủ số tử vong thực tế, dòng sông đen sẽ trào khắp đất nước, nếu tính đủ những con người bị huỷ họai ở tất cả các bên. Tôi muốn chấm dứt sự hồi nhớ này, nhưng không thể được. Giống như uống cả đại dương, nhưng có người phải nhớ, có người không bị trói buộc.
Tôi đã tới nước bạn không đúng lúc, nhưng nếu không đến thì tôi đã không hiểu được bản chất của mọi điều, mà vẫn nghĩ rằng đất nước tôi là thiên đường, về nhiều mặt thì đúng thế nhưng không phải thế. Nó được xây trên những nấm mồ, trên hài cốt, trên những lời hứa hão và những cơn ác mộng tiếp diễn, trên những nấm mồ rú gào sâu trong lòng đất, trên những cái xương sọ vỡ nát cùng những kỷ vật tôn giáo, trên những tấm da người dùng làm chăn đắp, chồng chất trên những nấm mồ của những nấm mồ. Mà chúng ta luônbận rộn chinh phục chính mình. Bất kể điều gì, chúng tôi được vây bọc trong một lời thần chú diệu kỳ khi còn thơ bé, rồi nó đã từ bỏ tôi khi chiến tranh bắt đầụ Tôi không nói chỉ có tôi hay chỉ có tuổi trẻ, tôi muốn nói điều gì đó về đất nước này.
Nhưng tôi cũng không chỉ nói đất nước này, tôi muốn nói cả thế gian này. Tôi đã dành thời gian tìm xem nó là cái gì, như một kẻ tự sát không chịu chết, một kẻ lạc quan trống rỗng, một cái phao giữa biển khơi.
7.
Trong cái vườn khô mà chúng ta dạo qua, nơi đá tượng trưng cho nước và cả chính nó (những chữ Hán có nghĩa là Thiên Tâm Viên, trung tâm thiên đường hoặc ở giữa thiên đường) có một ngọn núi, núi Sumenu, tượng trưng cho đỉnh cao nhất của mọi thế giới, mọi thế giới mà một vị bồ tát nắm giữ trong tay, mọi thế giới trong vũ trụ, và mọi thế giới chúng ta đang sống, nhưng nó cũng là trung tâm của vô cực, và bởi vì vô cực chỉ có trung tâm, chúng ta ngay lập tức đang đứng ở mọi nơi, mà trao đổi những gì không thể nói ra ngoại trừ thứ ngôn ngữ không bao giờ nói ra được. Nhưng chúng ta phải nói. Vấn đề là chúng ta có bao nhiêu cái đầu và bao nhiêu cánh tay, chúng ta nắm bao nhiêu thế giới, hay chỉ sẽ phải đi bao xa để chấm dứt cuộc chiến của chúng ta.
9.
Khi chúng ta đứng trong vườn và nhìn những chiếc cầu bằng đá nối liền các hòn đảo trên đại dương sỏi, tôi cảm thấy chiến tranh bay lên khỏi chúng ta thành ngọn lửa, từng chút một trôi vào đá như một dòng sông trên lửa.
Chúng ta đã chấm dứt một cái gì đó, đi dạo cùng nhau, và bắt đầu một điều gì đó. Tôi đọc thấy rằng với bạn chiến tranh đã kết thúc, nhưng không hề tin. Thắng lợi không phải là sự an ủi cho mất mát. Có thể ai đó trong chúng ta ăn mừng trong một khoảnh khắc, nhưng chúng ta sống một đời dằng dặc, và mục đích cuối cùng không phải là cái chúng ta cần. Hãy để cho tương lai nghĩ về cuộc chiến tranh đang kết thúc, bởi vì rồi nó sẽ kết thúc.
Chúng tôi không sao lành được. Nếu lành lại, chúng ta sẽ quên, mà nếu chúng ta quên thì nó sẽ lại xảy ra. Chúng tôi đã huỷ diệt quá nhiều, tới không còn mức xúc động. Ta biết là những kẻ ở trên và những kẻ ở dưới tán lá rừng đã giết hại bất cứ thứ gì xuất hiện trong tầm súng, và tất cả chúng tôi đều có tội. Chiến tranh luôn luôn là mất mát. Ngay cả khi anh chiến thắng.
12.
Tôi đã ra tới vách đá trên bờ Thái Bình Dương trước khi mặt trời lặn. Tôi đã kể với bạn rằng tất cả bạn bè thời thơ ấu của tôi đã bị giết trong chiến tranh, và bạn cũng nói với tôi điều tương tự. Tô cũng không thấy khó khăn khi nói tôi không hề căm giận đất nước bạn. Khó là ở chỗ phải nói với bạn rằng tôi căm giận bản thân biết chừng nàọ
Những con bồ nông ở trên đầu. Cái đầu đỏ hồng của một con chim sẻ trong bụi cây. Tôi ngồi trên một thanh tà vẹt đường sắt trên vách đá cao bên lề nước Mỹ. Khách du lịch phóng tới, chụp ảnh, rồi trở về nhà.
Một con chim cốc. Một chiếc thuyền buồm. Một chiếc tàu gắn súng của quân đội. Một chiếc trực thăng lượn về phía trên bờ biển.
Ðằng sau tôi, một căn cứ quân sự. Trước mặt tôi, biển cả.
Tôi đang chờ mặt trời lặn, nhưng nó sẽ không lặn.
George Evans
Hồ Anh Thái trích dịch
(TTCN 28/04/1996)
(*) Vườn địa đàng: vườn Tenshinen, vườn đá Nhật Bản tại Viện Bảo tàng mỹ thuật ở Boston.
6-8 cho một tuần
Thứ Hai (5:05 sáng)
đồng hồ réo năm giờ năm
giựt mình thức giấc, im nằm lắng nghe
giữa cơn nửa tỉnh, nửa mê
chớp hai con mắt cay xè phận thân
Thứ Ba (6:15 chiều)
xe trên đại lộ lướt nhanh
bỗng dưng kẹt chỗ khúc quanh hư đèn
gắt gao những tiếng bóp kèn
nghe ra như chuyện bon chen miệng đời
Thứ Tư (12:25 trưa)
ngồi trong sở với phần ăn
hôm qua vợ cất để dằn bụng trưa
hột gà, nước mắm, miếng dưa
ngon như hương vị thuở vừa yêu nhau
Thứ Năm (7:20 chiều)
thay đồ, bước vội ra nhanh
nhổ cho sạch cỏ dại quanh vườn nhà
cỏ-tha-hương giữa hồn ta
nhổ sao cho hết tuổi già mẹ cha
Thứ Sáu (11:45 khuya)
trắng trang giấy, trắng lòng đêm
trắng vần thơ rụng bên thềm trăng lên
thức ta vùi nhớ vào quên
trắng phần số giọt mực đen xứ người
Thứ Bảy (10:15 sáng)
đi siêu thị cuối tuần, chàng
đẩy xe theo vợ giữa hàng đồ chưng
này em... mua giá, chanh, gừng
đừng quên ớt hiểm cay bừng tương lai
Chủ Nhật (3:15 trưa)
bỗng lâu thằng bạn ghé chơi
hỏi thăm nhau những chuyện đời ngoài da
mười năm thoáng đã trôi qua
mười năm nữa, biết có là sơ giao ?
Trần Thuyên
New Smyrna/ Em/ Ướt
Ta/Về dựa nắng, nghỉ lưng
Soi em đụn cát chỗ rừng lâm râm
Sóng rên mịt tít mù tăm
Ốc/Da màu đá/ nằm ngâm
Khát người
96'7
Ian Bùi
lời tim
ngôn ngữ nào để nói
những gì chất trong tim
một ngày tim lên tiếng
cả thế giới lặng im
niềm đau nào bấu nát
đời nhọn vuốt chân chim
dưới gót chân còn đọng
từng giọt máu hồn nhiên
mỗi ngày khi nhắm mắt
tin, giấc ngủ bình yên
ta nằm ôm giọt máu
lần hóa kiếp đợi phiên
từ đông nghị
tiếng đêm
còn con chim hót trên đồi
sao em đã vội qua đời trong ta
quanh đồi, cây lá đơm hoa
trong tim, máu chảy chan hòa mộ em
hoàng hôn khóc một màn đêm
vầng trăng hắt nhẹ lên thềm, bóng ai
vắn em một sợi tóc mai
dài ta ngàn sợi quai nhai rối bời
sao Mai ta rụng giữa trời
sao Hôm em mọc cuối đời long lanh
nửa đêm, tiếng hót thất thanh
sáng, con chim chết dưới cành, lặng thinh
mũi tên ai bắn vô tình
Nguyễn Hiện Nghiệp
quê hương là áo chị
Nhớ hoài dáng áo bà ba
ngày xưa chị mặc ra nhà rất duyên
nhà em dưới rặng tre hiền
có giàn hoa giấy có triền thông xanh
mỗi lần áo chị ngang đình
trông hình như nắng, trắng hình như mây
mỗi lần mỗi một vòng tay
phủi vai áo chị hoa bay ngập đồng
có lần chị dõi mắt trông
em đi cách núi, ngăn sông, biệt tình .
Chút quê hương giữ bên mình
cầu tre lắc lẻo gập ghềnh chị qua
hiều chiều hoa bưởi hiên nhà
bay trên vai áo bà ba chị, tình.
Cỏ Nhớ
Sóng Biển
Ta một thuở vẫy vùng cùng gió bão
Từng phiêu du khắp cõi bờ đại dương
Từng nghe mưa, gió hú giữa đêm trường
Từng ào ạt, xô cát bờ, đập đá
Vẫn một thưở tuần hoàn, ta nghiêng ngả
Rõ sinh tử cũng tuần hoàn chuân chuyên
Bao hỷ sự, danh lợi cùng tơ duyên
Bao uẩn sầu , nghèo hèn, lẻ đơn bóng
Và thấu Ta , một kiếp đời nghiệp Sóng
Trải hồn rộng trên trùng dương vắng tanh
Ðêm gió lộng, ngắm tinh trời, đèn trăng
Ta muốn nuốt nguyên cả bầu trời xám
Tưởng chừng lòng êm ả, bao hoài cảm
Chợt rưng rưng quyện theo giọt mưa rơi
Thế nhân nào, ai biết Sóng giữa khơi
Thiên thu mãi đơn côi cùng hoang vắng
Sao Băng
Perth 07/96
NIGHT, AGAIN, CONTEMPORARY FICTION FROM VIETNAM
(Ðêm, Lại Đêm: tiểu thuyết Việt Nam đương đại)
tuyển tập truyện ngắn Việt Nam, Ðinh Linh tuyển chọn, gồm 12 truyện ngắn của Nguyễn Thiêm, Bảo Ninh, Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Ðỗ Phước Tiến, Yhế Giang, Phạm Thị Hoài, Mai Kim Ngọc, Trần Vũ, Ðỗ Kh. và Nguyễn Minh Châu. Các truyện ngắn trong tuyển tập do nhiều người dịch khác nhau. Sách dày 176 trang, bìa cứng, do nhà Seven Stories xuất bản, phát hành ngày 15 tháng 7 năm 1996.
Các truyện ngắn trong tuyển tập đưọc chọn lựa nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu tâm tình và đời thường của người Việt. Khác với những tuyển tập khác đặt trọng tâm vào chiến tranh Việt Nam, "Night, Again tách khỏi cái nhìn cổ điển (của người Mỹ) về Việt Nam trong thời chiến tranh, chuyển hướng chú ý đến Việt Nam thời hậu chiến. Những nhà văn này đã cho ta những ấn tượng, cùng một lúc vừa lạ lẫm lại vừa thân quen, về hiện thực Việt Nam sau chiến tranh...."
Sách có bán tại các hiệu sách như Barnes & Noble, Borders, Waldenbooks,v.v. Số danh mục ISBN 1-888363-02-9. Giá $25.00
SÓNG TRÔI
tập truyện ngắn của Ngự Thuyết, bìa họa sĩ Nguyễn Ðồng, Thanh Văn xuất bản, bạt của Mai Kim Ngọc và Nguyễn Mộng Giác, sách dày 240 trang, giá $12.00. Tác phẩm gồm: Lời vào truyện và 12 truyện ngắn của nhà văn quen biết của độc giả Văn Học, nhiều truyện trong tập đã đăng tải trên tạp chí này. Truyện ngắn của Ngự Thuyết tạo được một thế giới không giống với thế giới tiểu thuyết những người khác: nhân vật của Ngự Thuyết là những nạn nhân của cộng sàn, nhưng Ngự Thuyết không mô tả các nạn nhân ấy theo lối thông thường. Những nhục nhã đầy đọa họ từng chịu đựng thay vì biểu lộ bằng lời nói hành động, qua văn Ngự Thuyết lại biểu lộ bằng những tiếng khóc nghẹn, những hành động khác thường.
Sách do nhà xuất bản Văn Nghệ tổng phát hành.
BA NĂM HOÀN THÀNH CUỘC KHỞI NGHĨA TÂY SƠN, của Hồ Uyển,
tác giả tự xuất bản tại Úc, sách dày 344 trang, giá 19 Mỹ kim. Tác giả là một chính khách lão thành từng là dân biểu hai nhiệm kỳ (1968-1975) của VNCH, hiện định cư tại Cabramatta NSW Úc châu, về cuối đời viết cuốn tiểu thuyết dã sử này như trả một món nợ đối với quê hương. Tác phẩm chỉ chú trọng đến ba năm khởi nghĩa của anh em Tây sơn, tuy dựa vào một số sử liệu và truyền thuyết địa phương nhưng phần hư cấu đóng vai trò quan trọng hơn lịch sử. Ðặc biệt sách có nhiều tấm hình quí như đền thờ vua Tây sơn tại Xóm Lũy, An khê nơi Tây sơn làm căn cứ địa khởi nghĩa, điện Tây Sơn tại Kiên Mỹ Bình khê, cây me 300 tuổi trên nền nhà cũ gia đình Nguyễn Tây sơn, di tích Bến Trường Tru, chiếc ấn triều Tây sơn tìm thấy ở chùa Linh sôn cổ tự huyện Tuy Phong tỉnh Bình Thuận. Cuối sách có phụ lục trích đoạn báo Dân Việt tường thuật buổi ra mắt sách tại Cabramatta NSW.
VĂN HỌC MIỀN ÐÔNG, đặc san Mùa Xuân 1996 do Trung tâm Văn bút Miền Ðông Hoa Kỳ chủ trương, tranh bìa của họa sĩ Rừng (nhà văn Kinh Dương Vương), dày 180 trang, giá 6 Mỹ kim.
Ðịa chỉ liên lạc : Trung Tâm Văn Bút miền Ðông
NIỀM RIÊNG, đặc san của Trung tâm Văn bút Nam Hoa Kỳ, tranh bìa của Việt Phương, phụ bản tranh Vi Vi, Trương Sỹ Lương trình bày, dày 264 trang, giá 14 Mỹ kim.
Ðịa chỉ liên lạc : Trung Tâm Văn Bút Nam Hoa Kỳ
(Trích báo Văn Học tháng 7/1996)
Dung Nguyen sưu tầm
Bên Dòng Suối Nhỏ
Dòng suối sau nhà Phu, Ðường Trượng Phu, cho gia đình chàng nhiều điều thích thú. Xuyên qua bốn mùa xuân hạ thu đông, cũng như ngày qua ngày, những cơn nắng tẻ, mưa buồn, những biến chứng từ căn bệnh trầm kha, tương tư, của đất trời. Little Creek, tên của nó, hay là Dòng Suối Nhỏ, nếu muốn gọi bằng tiếng Việt, không phải là "Suối mơ, bên rừng thu vắng..." gì cả.
Có lẽ Phu đã đồng ý mua ngôi nhà này, ngôi nhà duy nhất mà gia đình chàng đã và đang ở từ ngày qua Mỹ, chỉ vì nỗi ngạc nhiên, vui mừng của vợ:
- Ô, anh coi kìa, có con suối lẩn khuất phía sau bìa rừng nữa kìa! Cảnh sao mà quá hữu tình, anh thấy hôn? Em sẽ biến khu này thành vườn địa đàng của chúng mình!
Phu cũng rất thích cái phong cảnh vườn sau đó, nhưng chàng vẫn hỏi vợ thêm một lần nữa cho chắc:
- Nè, có thiệt là em chẳng màng đến cái mặt tiền không đó?
- Mặt tiền? Em thấy mặt tiền ngôi nhà này cũng đâu có xấu xí gì. Tuy cái sân hơi nhỏ, nhưng anh đừng lo, mình khỏi phải tốn nhiều thì giờ cho ba cái vụ cắt cỏ, trồng cây chớ sao.
Thì ra quyết định mua nhà chọn đất, không những bên Mỹ này mà ngay cả khi còn ở Việt Nam, thường là do đàn bà đề xướng. Ðấy, chỉ là mới nói vòng vòng bên ngoài. Lọt vào bên trong, càng thêm rắc rối nữa. Nội cái nhà bếp không thôi cũng đã điên cái đầu. Cái này chật chội quá. Cái kia thì quay về hướng nắng chiều. Cái nọ trông ngay qua buồng ngủ đầu căn của nhà hàng xóm... Nhiều lần vợ Phu đã than phiền như vậy và luôn luôn kèm theo một câu kết gọn lỏn: "Em hổng chịu đâu... " Cuối cùng, chàng phải nhảy vào can thiệp, giải thích: "Không biết em tính sao chớ mình phải... bù qua chế lại. Muốn được cái này thì phải mất cái kia. Mình đâu có bỏ ra bạc triệu bạc muôn đâu mà đòi hỏi trong nhà phải có đủ thứ. Dầu gì đi nữa em cũng phải vừa ý với một cái. Ðể không thôi quá trễ, lạng quạng chính quyền địa phương hết tiền, không còn tiền cho vay. Vả lại, mình cũng đã đi coi mấy chục cái rồi chớ bộ ít ỏi gì sao. Anh không muốn phải chờ thêm một năm nữa mới mua được nhà."
Nhưng, những lời nói của Phu rồi cũng như nước đổ lá môn. Bởi vậy lúc nghe vợ nói thích con suối nhỏ phía sau nhà là chàng mừng hết lớn. Khỏi còn phải đi tới đi lui, mất hết cả thì giờ. Mặc dù căn nhà này nhỏ xíu, nếu đem so với những căn nhà dềnh dàng rạng rỡ của những tay ăn nên làm ra thì nó chỉ bằng cái lỗ mũi của người ta, nhưng điểm chàng thích nhứt là trong tương lai, chàng khỏi phải châu đầu, dụm đít, câu mỏ như thiên hạ. Nếu có đụng chạm gây gổ với láng giềng đi nữa, thì cũng chỉ chịu trận có ba mặt thôi, mặt trước và hai bên hông. Mặt sau, giờ là của chàng, một vùng trời thênh thang rộng rãi. Tuy không phải là chủ nhân chính thức (đất của chính phủ, hiển nhiên), nhưng nào ai thèm ngó ngàng léo hánh tới đây làm chi!
Dạo ấy đang giữa mùa hè. Sau hai tuần dọn dẹp, sơn phết bên trong nhà xong xuôi, nguyên gia đình chàng gồm vợ chồng con cái và Bingo, con chó nhỏ thuộc giống Beagle, bắt đầu tấn công tiến chiếm khu rừng hoang, với mộng ước biến nó thành vườn địa đàng, như vợ chàng đã từ lâu ôm ấp.
Ngoài những cây thông to lớn, cao vút đến chân mây và những cây tùng thấp, tròn, thon thon, cánh rừng còn chứa nhiều cây lạ chàng chưa hề thấy ở Việt Nam. Nào là những cây phong (maple) có lá răng cưa lớn, mới trông giống như những ngôi sao xanh mướt; cây sồi (oak) ngạo nghễ, cành và lá hình mũi viết chĩa ra khắp thân; cây mật ngọt (sweet gum) tươi tốt, có dáng dấp của những cây Noel to lớn, với đỉnh nhọn lểu cao chót vót; cây bạch đàn (white birch) da sần sùi, bạc thếch như vỏ cây tràm, tàn cây sum sê mang đầy lá hình đồng tiền nho nhỏ, trắng xanh hai mặt; cây dương đào (dogwood) với phiến lá dầy hình bầu dục. Những cây anh đào rũ (whipping cherry) trơ cành chơ vơ... và chằng chịt đó đây những dây leo độc (poison ivy), thân cùng lá xanh bóng như thoa mỡ, nhưng hễ động vô nó là ngứa gãi thành ghẻ, nổi giề như giề cơm cháy.
Việc trước tiên là phải chặt hết cây con, dây leo và bụi rậm. Cây lớn hơn một chút phải dùng cưa. Phồng tay, phỏng trán và ướt đẫm mồ hôi, chẳng khác gì đi làm xâu, làm thuế. Nhưng "đồng vợ đồng chồng, tát bể đông cũng cạn," mọi khó khăn, khổ cực rồi sẽ qua, Phu tin như vậy.
Nói đúng ra, chỉ hai vợ chồng chàng làm thôi. Ðám nhóc con chàng còn nhỏ quá, làm thợ vịn còn chưa xong nói gì làm thợ con, thợ cái. Nhưng trông tụi nó lẩn quẩn dưới tàn cây bóng mát cũng vui. Thỉnh thoảng còn chạy nhảy đuổi theo đàn bướm hoặc thơ thẩn hái hoa. Chỉ được một việc là lâu lâu chàng sai tụi nó vô nhà lấy nước trà, nước ngọt tiếp tế cho ba mẹ.
Ðang chặt cây, phát bụi thì bỗng dưng chàng nghe đám nhóc la lớn:
- Ba má ơi, lại đây coi nè, có con sóc lớn quá! Mà nó không chịu chạy đi đâu hết á!
Phu lật đật chạy tới. Vợ chàng theo sau. Chàng ngạc nhiên thấy con vật to bằng con thỏ, lông xám tro, bụng trắng phếu đang đeo dính cứng trên cành. Thằng nhóc cầm cây chĩa vào bẹ sườn mà cũng không thấy nó nhúc nhích. Vợ chàng cho biết:
- Ối, nó không phải con sóc mà là một loại chồn hôi (opossum). Nó ưa giả chết khi bị phát hiện. Cứ để yên một lát thì nó sẽ bò đi mất tiêu cho mà coi.
- Bắt nó xuống chơi được không má?
- Chơi gì với cái lũ chồn hôi hám đó! Với lại nó cắn chết, nó có răng đó...
Bỏ mặc lũ nhỏ với con chồn, vợ chồng Phu tiếp tục trở lại với công việc khó nhọc. Khi thì dùng đao, khi thì dùng búa, khi thì dùng cưa, có lúc phải dùng đến cuốc. Cái cuốc bên Mỹ này rất khác biệt so với cái cuốc bên nhà. Nó có hình tam giác, mũi nhọn hoắc như mũi chĩa ba, xài riết rồi cũng quen. Cạnh lưỡi cuốc bén lắm, có thể dùng để chặt đứt những cây con, coi bộ còn dễ hơn dùng dao, cho dù là loại dao chặt thịt, to bản đi nữa.
Mất cả ngày trời vợ chồng chàng mới dọn xong một khoảnh rừng chừng nửa mẫu anh, trải dài từ hàng rào sau nhà ra đến tận bờ con suối nhỏ. Hai bên bờ suối đầy cỏ dại nở những chùm hoa li ti màu tim tím như màu bông lục bình. Lác đác một vài đám cỏ xanh rì, với những lá hình ngòi viết giống hệt như lá rau đay, mọc lan trên bờ cát gần sát lạch nước. Lòng suối khoảng bốn năm thước bề rộng, uốn khúc ngoằn ngoèo, lẩn khuất trong tàn cây nghiêng ngả, chằng chịt tủa ra từ hai bên bờ vì đất bị lở do nước cuốn soi mòn. Ðây đó những cồn cát nhỏ, vàng lẫn trắng, nổi lên trơ bóng. Nước suối trong veo, không đầy lắm, chảy lừ đừ, mát rượi. Những chỗ sâu còn thấy những bầy cá trắng, cá sặt con... tung tăng bơi lượn.
Qua ngày hôm sau, Phu đem máy cắt cỏ ra làm một chập giáp vòng. Những lõm đất trống, không một cọng cỏ, phơi bày loang lổ như những đám lang ben trên lớp da xanh mướt. Nhiều đường ngầm của loài chuột nhủi (mole) vừa đui vừa điếc, sống sâu dưới đất như Việt cộng, bỗng trở nên lộ thiên, trông như những luống đất cày nho nhỏ. Nhìn chung, khoảnh vườn trông cũng sạch sẽ chán. Bóng mát vẫn còn che khuất nhiều nơi từ những tàn cây cao còn sót lại.
Không may cho gia đình Phu ngày ấy là con Bingo, có lẽ vì không ưa tiếng nổ bạch bạch của máy cắt cỏ, đã chạy sâu vô mảng rừng phía sau nhà hàng xóm. Rồi không biết nó đã "đào mồ cuốc mả nhà ai" mà một bầy ong nghệ (yellow jacket), loại ong vàng có khoan đen thường làm tổ dưới đất, bay túa ra rượt mọi người chạy có cờ. Phu và thằng con thứ của chàng bị chích mỗi người một vết trên bả vai, đau điếng. Một lúc sau chất độc ngấm vào, làm cánh tay như muốn xuội. Riêng con Bingo thì bị nhiều nhứt, lỗ mũi, lỗ tai và mí mắt sưng vù mấy cục. Nó nằm rên ăng ẳng, thỉnh thoảng đưa chân khều khều, gãi mấy chỗ sưng.
Phần công tác trên đất liền kể như xong. Chỉ còn đặt thêm một cái bàn pinic ở giữa khu vườn nữa là tất cả đâu vào đấy. Công tác dưới nước mới là gian nan, vì vợ Phu đề nghị:
- Em muốn bắc một cây cầu dài từ bờ ra giữa suối để anh có chỗ chiều chiều ra đây ngồi câu thời câu vận. Và trên cháng ba của cây bạch đàn này em cũng muốn cất một cái nhà chòi cho mấy đứa nhỏ có chỗ chơi trò Tarzan!
Cứ cái điệu này thì chắc mình phải ru rú "ở nhà với vợ biết ngày nào khôn" quá, Phu nghĩ. Sao mà tính khôn quá vậy ta? Còn đám bạn bè ăn nhậu, bù khú của chàng bỏ cho ai?
Tuy vậy, Phu cũng góp ý:
- Chuyện gì chớ bắc cây cầu từ đây ra đó không có gì khó khăn hết. Ở giữa suối, ông trời đã chôn sẵn cho mình hai gốc cây chết. Bây giờ chỉ cần cưa ngang nó ra làm trụ thì chắc biết mấy. Bắc lên đó một cây đà, rồi thảy nhẹ thêm một tấm đòn dài bên trên nữa là xong. Cùng lắm thì chõi thêm một, hai cây trụ chống nữa, làm đà chịu ở khoảng giữa. Nhưng, cái vụ cất nhà chòi trên cây mới là khó. Cây ván phải mua. Ðinh vít phải sắm. Rồi, nếu mà làm không cẩn thận nghen, té trẹo bản họng có ngày!
Nói gì thì nói, lệnh bà đã ban ra thì tất cả phải răm rắp thi hành! Trong khi chàng đục đẽo, cưa cắt và có khi còn phải trầm mình nửa thân dưới nước thì đám con của chàng nhởn nhơ đùa giỡn, trầm nghịch bên dòng suối. Bọn nó đi bắt tôm lóng, tôm cụt, tôm lò rèn (cray-fish), nói chung là những con tôm có cái mình nhỏ xíu trong khi đầu và hai càng bự chù vù; bắt cá kèo Mỹ (salamander), giống hệt như con rắn mối mà lại sống dưới nước được mới là lạ; bắt cá lia thia...
Riêng phần Phu, chàng nghĩ nếu chàng ra tay, bắt chước mấy con hải ly (beaver), cưa gỗ đắp đập, chắn ngang suối thì gia đình chàng sẽ có một hồ tắm nửa nhân tạo nửa thiên nhiên. Bảo đảm không thua gì hồ tắm ở suối Lồ Ồ. Nhắc tới suối Lồ Ồ làm chàng nhớ Sài Gòn, Thủ Ðức, Hố Nai, Biên Hòa đất đỏ... quá chừng. Hồi nào mới thương nhau, hai vợ chồng Phu cũng đã từng đến con suối đó. Không phải để tự tử mà là để tù tí, như bao cặp tình nhân khác. Nước suối Lồ Ồ trong sạch hơn vì rỉ ra ngay từ trong núi, còn dòng suối này lại chảy qua những vùng đất thấp, mang theo ô uế tục trần, độc địa hơn nhiều. Việc đắp đập thì chàng chỉ nghĩ vậy thôi, còn lâu chàng mới đem điều này thố lộ cho vợ biết. Vì chàng rõ hơn ai hết, ai sẽ là người đóng vai dân thợ và ai sẽ là kẻ giữ chân đốc công.
Công việc nhà, dù khó khăn mấy đi nữa bảo đảm không sớm thì... muộn, Phu đều hoàn thành mỹ mãn. Rồi cũng đến ngày coi như tạm chấm dứt công tác bên dòng Suối Nhỏ. Tuy không có lễ lộc, cắt băng khánh thành khu vườn địa đàng, thượng uyển hay công viên gia đình này, nhưng bữa cơm chiều hôm đó có thịt bò nướng barbecue thơm phức, có la-ve củ kiệu, có bánh tráng rau sống... Ðầy đủ quá! Bên cạnh "nửa cây cầu sông Kwai" vừa hoàn tất còn có cả chòi canh, đồn lính cất trên cao. Còn gì hơn! Vui biết mấy!
Nhưng những giây phút thật thần tiên, thanh bình an lạc bên dòng suối chảy róc rách ấy đã làm Phu nghĩ nhiều đến gia đình chàng còn ở lại Việt Nam. Không biết giờ này cha mẹ, anh em chàng đang sống thế nào dưới chế độ Mác-Lê bế tắc! Gia đình là nền tảng của xã hội phương đông, vậy mà bị bứng gốc sang trồng ở phương tây thì làm sao cho trái ngọt cho được. Không còn nghĩa lý gì cả. Một hai chục năm nữa đây, mọi thứ mà chàng đã cẩn trọng mang theo, gìn giữ rồi cũng sẽ biến mất, hòa tan vào cái xã hội vốn hay đề cao và đặt nặng vấn đề thành công cũng như đóng góp của từng cá nhân.
Mùa hè trôi qua và mùa thu lại đến. Không cần phải đi đâu xa, không cần phải lên núi như nhiều người đã làm, vợ chồng Phu có thể ngồi tại nhà mà ngắm cảnh mùa thu. Những chiếc lá vàng rụng rơi theo từng cơn gió, trước mắt chàng, qua khung cửa sổ vườn sau, trên tầng cao nhìn xuống bìa rừng. Hàng ngày, mỗi chiều chàng đi làm về, chàng ước gì mình biết làm thơ để ghi lại những nôn nao của tâm hồn qua sắc lá thân cây muôn hồng nghìn tía, qua những cách buông mình lửng lơ, im lìm, hay chao đảo tung bay của những úa vàng. Những úa vàng ấy đã thật sự khơi mầm cho một màu xanh đang được tạo dựng trong âm thầm, lặng lẽ. Như cuộc đời này. Như dòng Suối Nhỏ kia, đã, đang và sẽ mãi mãi trôi.
Rồi mùa đông lại về. Tuyết trắng rơi phủ đầy rừng, trên những cành cây trụi lá tua tủa như rừng gươm, trên "nửa cây cầu sông Kwai," trên mái nhà chòi, giờ trông như một tổ chim lớn vắt vẻo trên không. Và hai bên bờ suối, tuyết như hai hàng ren kết bằng bông gòn, từng cụm, từng cụm trắng xóa, mấp mô theo lối đất. Xa xa, một vài cây thông, gốc tùng xanh thẫm, điểm chấm phá cho khung nền đơn điệu, xám ngắt một màu. Tất cả băng giá, rét run, như từ lâu không còn sức sống, không một dấu hiệu hoạt động nào...
Tháng ba, mùa xuân trở lại và rừng xưa thay lá. Những nụ non tơ mởn đâm chồi. Phết lên rừng một màu đọt chuối, với từng mảng lớn những vết phơn phớt hồng hay mơn mởn xanh. Những đóa anh đào (cherry) và lê trắng muốt, những búp hồng đào (redbud) tim tím, những cánh dương đào hồng mịn hay trắng nõn, những chùm hoa táo dại (crab apple) tím hồng... thi đua khoe mình dưới nắng xuân. Những con chim én (swallow) cánh đen tuyền, những con chim Cardinal lông đỏ, những con chim hoàng yến lông xanh (blue jay), hợp với lũ chim sẻ ức đỏ gạch (robin)... đã trở về bay lượn rợp trời, đùa hót vang rân. Cả con Suối Nhỏ sau nhà cũng đã trở mình thức giấc, hân hoan ôm vào lòng những mảng tuyết tan. Dòng nước trong ngăn ngắt giờ đổi ra màu hoàng thạch. Và Phu cũng vậy, chàng cảm thấy khoan khoái, dễ chịu, yêu đời hơn.
Nhưng, như một định luật thiên nhiên bất biến, đi đôi với cảnh đẹp mùa xuân bắc Mỹ là những cơn mưa tầm tã trong mùa tuyết tan, gây nên những trận lũ lụt chết người.
Ngôi nhà Phu nằm trên một sườn đồi nhưng vẫn không thoát khỏi ảnh hưởng của những cơn lũ lụt mùa xuân đó. Chỉ sau ba ngày ba đêm mưa dầm liên tiếp, con Suối Nhỏ không kịp nuốt hết dòng sữa phù sa đổ tràn vào thân mình, bụng nó giờ trương lên, phình ra chang bang hai bên bờ như một dòng sông lớn, cuồn cuộn thác đổ. Vợ Phu than thở:
- Thôi, kể như tiêu hết rồi! Vườn chơi của mình rồi sẽ đầy bùn đỏ cho mà coi. Bao nhiêu hoa em mới trồng ven bờ suối chắc đều úng thủy, chết hết trơn rồi! Thuở đời nay, toàn là vạn thọ, thược dược, cúc lớn, cúc nhỏ... chớ có phải lúa xạ đâu mà biết vọt lên cao theo con nước. Thiệt là công dã tràng! Mấy ông thần tiên đoán thời tiết kỳ này coi bộ ba búa trật lất cả ba!
Phu đỡ lời:
- Ối, ba cái lẻ tẻ đó mà nhằm nhò gì! Anh chỉ sợ cây cầu thủy tạ của mình rồi cũng trôi đi tuốt luốt!
Mà nó trôi thiệt! Ðến lúc nước giựt xuống, không còn một mảnh ván làm thuốc! Bóng dáng của "nửa cây cầu sông Kwai" giờ chỉ còn lại hai cái trụ thiên nhiên làm bằng hai gốc cây bị chôn sống từ lâu ở giữa dòng. Hừm, một đời ta hai ba đời nó, rồi Phu sẽ xây cất lại, to lớn hơn, vững chắc hơn...
Cũng bên dòng Suối Nhỏ đó, trong một buổi chiều mưa lâm râm buồn bã, Phu đã hò hét đám con:
- Ba không cần biết các con đã bỏ ra bao nhiều tiền để mua sắm, đổi chác với đám bạn, ba chỉ cần các con từ nay phải bỏ thói quen thức thâu đêm để đọc những cuốn sách nhảm nhí, vô bổ này. Nó không mảy may giúp ích gì cho các con trong việc học hành thi cử, mà còn có hại cho sức khỏe nữa, hiểu không? Bây giờ ba muốn tự tay các con vứt những thứ độc hại đó xuống suối!
Lẽ dĩ nhiên đám nhóc răm rắp nghe theo, không cãi một lời. Từng cuốn một, trong đó có cuốn bọc bìa ni-lông thật kỹ, rơi tòm xuống suối. Cả thùng, năm bảy chục cuốn chớ không phải ít. Một đô-la một cuốn, một đô-la hai mươi lăm xu nếu đem bán qua xứ Canada. Rồi, hãy làm ơn bái-bai những anh hùng vũ trụ, những Conan, Superman, Spiderman... và hãy quên đi những trận ác chiến nảy lửa có những Bam!, Zoom!, Pow! ... v.v. Thời gian đó, nghĩ lại, có lẽ là khoảng thời gian duy nhất mà Phu đã hành xử quyền làm cha có phần nào độc đoán của mình, theo lối Ðông phương. Vì ngay sau đó, chàng đã thay đổi rất nhiều.
Mười mấy năm qua, giờ này, đám con của Phu đã khôn lớn. Nếu còn đủ, chàng có cả thảy chín đứa chớ chẳng phải ít. Một đứa chết bịnh, hai đứa chết trong chiến tranh và một đứa chết lúc chạy loạn. Còn lại ba đứa lớn, một đã ra trường và hai đứa còn trong đại học. Hai đứa nhỏ nhứt ngồi lớp 11 và 12. Ngoài tình cha con, mẹ con ra, giữa đám nhóc và vợ chồng Phu còn có thêm cái tình... bạn, theo như lối giáo dục Tây phương. Cái việc "má mà đánh con, con sẽ thâu roi" đã không hề xảy ra. Ngày nay, bên dòng Suối Nhỏ, trên "nửa cây cầu sông Kwai" mới được cất lần thứ ba, đứa con trai thứ (bây giờ lại là đứa lớn nhất nhà) đã tâm sự với Phu:
- Ba biết hôn, nếu hồi đó mà ba không bắt con vứt mấy cuốn cosmic book đó xuống suối thì bây giờ có lẽ con đã trở thành một họa sĩ hoạt họa thay vì một kỹ sư như ba má mong muốn. Hồi đó con mê đọc thì ít mà mê vẽ thì nhiều. Con còn giữ hàng trăm bức họa của con mà ba má đâu biết. Con nghĩ, đôi lúc chính cha mẹ đã vô tình cản trở bước tiến của con cái, ba thấy có phải như vậy không ?
Như vậy là từ bấy lâu nay bọn nhỏ đã dấu chàng rất nhiều điều? Phải! Chuyện con cái dấu giếm cha mẹ là chuyện thường tình! Như chính Phu hồi còn nhỏ, xa xưa cũng vậy thôi. Hút thuốc, dấu. Uống rượu, dấu. Bồ bịch, ăn chơi hoang đàng, dấu. Bắt buộc, chàng nghĩ! Vậy thì đến đời con, đời cháu mình..., mình cũng đâu làm sao phiền trách tụi nó cho được. Chàng từ tốn phân trần:
- Thì ngay bây giờ, nếu con thích, con cũng có thể trở lại với ngành vẽ của con bất cứ lúc nào mà, đâu có muộn màng gì!
- Không được đâu ba. Cái đam mê của mình coi vậy chớ nó chỉ có một thời thôi. Cái thời đó mà lỡ qua rồi thì khó tìm được hứng thú để trở lại lắm. Ba biết hôn, tụi con còn dấu ba má nhiều chuyện lắm mà ba má nào có hay. Chẳng hạn như ngay cái vụ thằng Thông, thằng út nhỏ nhứt trong nhà, mà lại có vô số bạn gái mới chết. Trong khi con, đứa lớn đầu nhứt, vẫn chưa tìm được một người bạn gái vừa ý. Ðiều này chắc ba má cũng đâu đã biết hả?
Phu hơi bàng hoàng, sửng sốt vì lời tâm tình của con. Không hiểu vì lẽ gì mà nó nêu lên vấn đề đó. Có phải vì những răn đe nghiêm khắc của chàng ở buổi ban đầu, thời mới lớn, mà đã làm cho nó khó khăn hội nhập vào cái xã hội này? Chàng nghĩ, chàng đâu có khắc khe gì cho lắm đối với mấy đứa lớn, và cũng chẳng hề buông thả cho mấy đứa nhỏ sau này. Chàng giã lã:
- Vậy sao! Vì lẽ gì mà con không làm được những gì em con đã làm chớ ?
- Con cũng không biết nữa ba à! Làm như trong mỗi người chúng ta, ai ai cũng có số hết, phải hôn ba ?
Cái số ? Cũng có lý lắm chớ! Chính Phu đã nhiều lần cảm nhận như vậy. Ngay bản thân chàng, là con người vốn hay thích làm chuyện "nhân định thắng thiên," nhưng tại cái số trời đã định kia, thường bắt chàng phải rơi vào cảnh bó gối, chờ thời. Phu gật gù, kết luận:
- Ừa, có lẽ con người ai ai cũng đều có số hết! Cái số của hai cha con mình là ngày này, giờ này mình phải ngồi tại đây, bên dòng Suối Nhỏ này và bàn về vấn đề... cái số, như đã được viết sẵn và không thể nào thay đổi được.
Rồi chàng ngẫm nghĩ, nếu mà mình tin vào định mệnh, vào số trời, thì... đâu còn chuyện gì để nói nữa. Mọi việc, phải chăng, đã an bày từ lâu Ngay cả chuyện tử biệt sinh ly...
Nguyễn Tấn Hưng