vhnt, số 126
6 January 1996
Trong số này:
thư vhnt................................................................PCL
Giới Thiệu Người Viết: Bùi Trọng Nghĩa (Ian Bui) & 3 bài thơ ngắn: Khai bút; Tình cờ, Chiều lên
T h ơ :
1 - Lục bát cho tư duy..........................Nguyễn Phước Nguyên
2 - Không lối về ...........................................Vũ Lê Phan
3 - Không đề ........................Hoàng Phủ Ngọc Tường/Chinh g/t
4 - Chờ đợi...................................Nguyễn Tuyết Phương
5 - Hồi âm...............................................Trần Thu-Hồng
6 - Tơ tình ..........................................Cỏ Nhớ / Lộc Quy
P h ỏ n g V ấn :
7 - Thụy Khuê (đài RFI, Pháp) phỏng vấn nhà thơ Xuân Sách
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Trận chiến (p1/2)..........................Nguyễn Phước Nguyên
6 tháng giêng, 1996
Mục "giới thiệu người viết" số này xin dành đất cho anh Bùi Trọng Nghĩa và 3 bài thơ ngắn. Anh Nghĩa là một cây viết trẻ thường xuyên xuất hiện trên diễn đàn SCV, với biệt danh Ian Bùi. Thơ anh ngắn, cô đọng chữ nghĩa, điên đảo chữ nghĩa. Anh rất khéo với cách dùng chữ. Giá có Bùi Giáng ở đây, anh Nghĩa có thể rủ Bùi Giáng đi uống rượu được. Một tiền bối một hậu sinh e rằng sẽ tương đắc :) Cám ơn anh Nghĩa với những giòng tiểu sử.
Xin giới thiệu anh Bùi Trọng Nghĩa với độc giả vhnt.
Cũng xin được nhắc bạn văn và bạn đọc, bài trích đăng từ VHNT, xin nêu rõ xuất xứ (trích từ VHNT trên internet) và xin liên lạc trước với tôi hoặc liên lạc thẳng với tác giả bài viết qua e-mail. Cám ơn bạn, chúc bạn một cuối tuần an vui.
thân ái,
PCL/vhnt
G i ớ i t h i ệ u n g ư ờ i v i ế t :
B ù i T r ọ n g N g h ĩ a
(ảnh chân dung chụp bởi Thận Nhiên)
Bút hiệu: Ian Bùi
Sinh 1961 tại Sàigòn. Rời VN năm 75, sang Mỹ. Hồi bên nhà đi học trường Trung Tâm Giáo Dục Hồng Bàng, trường Quốc Gia Âm Nhạc (major vĩ cầm) và Hội Việt Mỹ. Hiện đang dịnh cư tại vùng Dallas, làm nghề telecommunications software.
Bắt đầu làm thơ từ những năm 79-80 khi vừa ra trung học. Thần tượng thơ: Cao Bá Quát, Bùi Giáng, Tản Ðà, và e. e. cummings. Ngoài việc làm thơ còn soạn nhạc và vẻ. Rất mê thể thao, nhất là tennis, billiard, và golf.
Thêm vào đó là những hoạt động trong cộng đồng, chú trọng nhiều đến giới thanh niên và thế hệ kế tiếp. Thích theo dõi việc chính trị nhưng không có mộng trở thành chính trị gia. Chỉ mong đóng góp phần mình vào việc xây dựng một cộng đồng hải ngoại sao cho xứng đáng với truyền thống người VN mà thôi.
Rất ít đăng bài trên các báo, không hiểu vì sao. Nhưng cũng rất thích gởi bài cho VHNT vì cảm thấy đây là một diễn đàn rất dễ thương. Hy vọng sẽ có thì giờ để đóng góp thường xuyên hơn trong tương lai. Sau đây xin được gởi đến các bạn ba bài thơ ngắn (rất ngắn) làm năm ngoái, về những cảm xúc bất chợt đến trong đời sống hằng ngàỵ.
Khai Bút
Sáu đồng ấm nửa mùa đông
Tay khô chụm lá khơi hồng khói lên
Ngồi nghe củi nổ trong đêm
Mà thương kẻ lạnh nằm bên bếp đời
(95'1)
Tình Cờ
Bài thơ nằm ngủ trên tờ
Bật cơn gió rách tình cờ thoát y
Tỉnh mơ mòn gối chân mi
Giở trang ký ức chép ghi muỗi mòng
(95'4)
Chiều Lên
Chiều lên trăng xuống vườn tôi
Bầy ve dễ dãi lôi thôi kéo màn
Nai lưng, giun dế mở hàng
Nén cơn hạ gió thu tràn lên cây
ps: Ian là một thể của John (Scottish) và là tên tự chọn khi vào công dân Mỹ.
Lục Bát Cho Tư Duy - 1
mưa đời
trời mưa thì mặc trời mưa
tôi ngồi tôi nghĩ ngày chưa có trời
giữa cơn giông tố lên đời
tôi ngồi tôi gọi... ơi ời, trời mưa
vô thường
ô hay, có những vòng tròn
một đời ta mải vẫn còn chạy quanh
nhật ca
nhớ Bình Nguyên Lộc
tuổi già đã thật về chưa
tuổi thơ đi mãi vẫn chưa thấy về
lạy trời độ lượng mây che
đủ cho bóng mát lối về tôi đi
một mai đời chẳng còn chi
cũng còn con nắng từ bi bốn mùa
nguyệt ca
đêm xưa lên núi tìm trăng
thấy trăng rụng giữa mấy tầng sương khuya
lối về nửa nhánh sông chia
ta chôn trăng dưới mộ bia thiên hà
đêm. trong suốt. cõi lòng ta
vầng trăng nở một nụ hoa vô thường
vòng đời
vòng tay ôm lấy cuộc đời
biết vòng tay nhỏ, biết đời bao la
hôm nao mở rộng lòng ra
ô hay, đời đã trong ta bao giờ
cáo chung
nhớ Nguyễn Tất Nhiên
thưa em. thưa bạn. thưa đời.
thưa người nhân thế. thưa trời mưa rơi.
ngày mai tôi để tang tôi
ngày mai giữa chợ tôi ngồi khóc tôi
nụ cười đượm thắm lên môi
lệ tôi thầm chảy cho đời điểm trang
và thưa với cả trần gian
ngày mai tôi chết, đừng mang tôi về
Nguyễn Phước Nguyên
Không Lối Về
Gửi xiêm áo lại cho người mộng mị
Trả phù vân về dưới cội vàng hoa
đời bể dâu chưa nhụt lời chí khí
Ta còn mê hay người tỉnh bao giờ
Ngày viễn mộng vẫn cuồng chân lữ thứ
Đêm phù hoa trăng mê lộ còn say
Chẳng gió sương nào xa lạ hình hài
Ta lối vắng ngâm riêng lời vạn cổ
Từ thơ ấu đã hiểu rồi cuộc lữ
Để ngạo nghễ vào giữa cuộc ăn thua
Trong áo mỏng dấu một đời du tử
Nên mất mát kia đã biết như đùa
Cười vào Tử Ngang sợ sầu thiên địa
Chê họ Lý nào ngủ giữa mùa trăng
Áo chẳng còn xanh trên đồi Tuệ Sỹ
Thì cũng ra đi dẫu chỉ một lần...
lephan
Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ là một nhà văn, một người viết tuỳ bút nổi tiếng (trong lãnh vực tùy bút), Nguyễn Tuân - người viết tùy bút hay nhất Việt Nam - cũng phải trầm trồ khen ngợi những bài viết về Huế của HPNT), ông còn là một thi sĩ với những bài thơ rất lãng mạn. Từ vụ bị vu oan trong "Tết Mậu Thân" 68 ở Huế, cho đến nay, Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn còn là một mục tiêu chống đối từ nhiều phía (của cả hai miền: miền Bắc và miền Nam!). Tuy nhiên, ngoài sự dính líu với chính trị, thơ HPNT vẫn là một cõi thơ đầy chất thơ, từ một người làm thơ rất tài hoa.
Không Đề
(1)
Có nhiều khi tôi quá buồn
Tôi ước mong về ngồi dưới cội cây xưa
Em có gởi điều gì theo lá rụng
Nỗi đau nào khẻ động vai tôi
Dáng ai như tôi đi qua cánh đồng
Thu nhặt lại mình trên ngọn gió
Giống như con chim sẻ nọ
Thu về từng cọng vàng khô
(2)
Có nhiều khi tôi quá buồn
Tôi ước mong chung quanh chỗ tôi ngồi
Mọc lên nhiều cây cỏ
Cây trinh nữ đau gì mà rũ lá
Tôi gập người trên bóng tôi
Nhân gian không còn ai nói cười
Tôi còn ngồi chi đây một mình
Cắn móng tay từng ý nghĩ mong manh
Giống như con châu chấu nọ
Gặm hoài lá cỏ xanh
2.1985
Hoàng Phủ Ngọc Tường
Đinh Trường Chinh chia sẻ
Chờ Đợi
tôi nín thở cho ngày qua thật nhanh
những chiếc lá không kịp vàng
nỗi buồn không kịp đến
và tình yêu không chết non
tôi nín thở cho ngày qua thật nhanh
để không còn nhớ
em đi qua đời này
bằng hai bàn chân
sao không còn tiếng động
tôi bướm khô nằm mộng
ngàn năm sau chờ đợi bóng em về
trời cuối thu còn gọi những đêm hè
có ai khóc
hay mưa về trên phố
em đi qua đời này
như mây trên cao
tôi đứng vói, bàn tay còn năm ngón
sao buốt đau như mạch máu vừa tuôn
em đi qua đời này
cỏ cây im lặng
em làm sao hiểu được
tấm lòng tôi sỏi đá bên đường
tôi nín thở cho ngày qua thật nhanh
và đêm không còn đến
vườn cây trái năm xưa
có mùi hương hoa cũ?
tn.
Chờ Đợi
dù em không chờ đợi
ngày cũng vẫn qua
và đêm nghiêng những cánh hoa
toả nỗi buồn vào lòng em bát ngát
cánh lá vàng đã nát
dưới nhịp bước vô tình
dù người qua đây em vẫn một mình
cánh cửa còn bỏ ngỏ
bên song thưa ngọn đèn lu tỏ
vò võ chờ những giấc mơ xa
ngày đã đi qua
và đêm không vội vã
dù em còn níu gọi
trời mùa thu không nuối sắc mây hè
nỗi nhớ là xác ve
chờ rã mục dưới tàng phượng vỹ
em đóng khung thời gian vào ý nghĩ
và quăng vào biển cả hư vô
đêm rồi cũng sẽ qua
còn ngày mai, có tới?
tt.
Hồi Âm
cho Vi
Sáng nay có bác phát thư gầy
Móm mém cười đưa thư tận tay
Nhận ra chữ kia đà quen nét
Nhỏ gửi về ta nỗi nhớ đầy
Tết đến quê xưa, nhỏ cũng hay
Chiều nay nắng ấm phủ vai gầy
Lang thang chợ Tết ta đơn lẻ
Nhớ nhỏ, ta mua vải hồng say
Năm nay Mẹ sắm nhiều hoa quả
Cũng nhờ quà tặng nhỏ gửi ta
Trái cây, hoa đã bày đẹp đẽ
Chuẩn bị Giao Thừa đến đó mà
Pháo nổ... tách... đùng... nhỏ ở đâu?
Nơi đây ta sẽ nhớ nguyện cầu
Cho nhỏ vui nhiều nơi xứ lạ
Tình duyên thắm đẹp mãi dài lâu
Có lẽ mồng ba ta sẽ đi
Thăm thầy và nhắc tới tên Vi
Nhớ nhung thoáng nét già với trẻ
Lung ling giọt lệ đọng hoen mi
Bạn cũ giờ đây thất lạc nhiều
Hàng me dạo nọ cũng tiêu điềul
Ðậu đỏ ngày xưa, nhỏ thèm há
Làm sao gửi đến, hỡi nhỏ yêu?
Tết nhớ nhỏ nhiều, nhớ ghê nơi
Thơ nhỏ gửi về thấy chơi vơi
Mai vàng thắm nở tươi ngoài ngõ
Nhớ nhỏ, vài hàng gửi đến nơi...
Thu-Hồng
(thơ họa cùng Vi)
1/04/96
Tơ Tình
Tôi về tháo nốt guồng tơ
thấy tình em rớt trong ơ hờ nầy
cơ cầu chi nữa mà quay
tơ buồn không nỡ vá may duyên người
tôi về hồn thánh thót rơi
giận hờn xưa cũ tâm bồi hồi tâm
về nghe tình lỡ trăm năm
ngổn ngang thơ rối giam cầm bóng em.
Cỏ Nhớ
PHỎNG VẤN NHÀ THƠ XUÂN SÁCH
(Theo đài RFI, Pháp, Thụy Khuê thực hiện)
Nhà thơ Xuân Sách quê quán tại Thanh Hoá, đi bộ đội từ năm 50, mười năm sau ông vào tạp chí Văn Nghệ Quân Ðội#. Năm 1992, tập thơ Chân Dung Nhà Văn của Xuân Sách ra đời và bị cấm lưu hành. Hiện nay, ông là chủ tịch hội Văn Học Nghệ Thuật ở Bà Rịa, Vũng Tàu. Trong chương trình Văn Học Nghệ Thuật hôm nay, ông sẽ nói chuyện với chúng tôi về Ðại hội Nhà Văn kỳ 5.
oOo
TK: Thưa anh, Ðại hội Nhà Văn vưà qua là một biến cố khá quan trọng trong năm nay . Là một người quan tâm đến chân dung các nhà văn, sau khi đi dự đại hội về, chắc chắn là anh có 1 cảm nhận đăc biệt Xuân Sách?
XS: Theo đúng như chị nói, khi đi đại hội nhà văn, tôi cũng có ý nghĩ như vậy. Dĩ nhiên tôi không coi đại hội là cái gì quan trọng để có thể quyết định bộ mặt văn học. Tuy nhiên nó cũng là cái mốc để mình có thể đánh giá tình hình vưà qua. Tôi nghĩ nó có đạt được mấy điểm chủ yếu sau đây. Trước hết là các nhà văn biểu lộ, bộc lộ được tư cách cuả mình, và trong lần này, nó không thật là ồn ào như đại hội lần trước cuả thời kỳ mở đầu cho sự đổi mới. Nhưng lần này nó đi vào chiều sâu hơn. Tuy nhiên, nó cũng có sự phân hoá rõ hơn, cũng xuất hiện nhiều người chân chính, cũng xuất hiện nhiều hiệp sĩ, đồng thời cũng xuất hiện nhiều loại ốc bưu vàng, rồi thì huyền lưng, huyền phệ trong văn chương mà tôi cho đó là 1 dấu hiệu tốt. Bởi vì sợ nhất là tình trạng dĩ hoà vi quí nó cứ nhập nhoàng trắng đen.
TK: Ngoài ra, những vấn đề mà mọi người đặt ra trong kỳ họp này chủ yếu là những vấn đề gì, thưa anh?
XS: Về vấn đề đặt ra, có mấy vấn đề như thế này. Trước hết là đánh giá những cái được cuả văn học vừa qua, rõ ràng là văn học vẫn còn hướng đổi mới theo nghĩa đúng của nó. Tức là các nhà văn vẫn tìm tòi, thể hiện, trong cái thể hiện đó biểu hiện được sự tự do sáng tạo cuả mình hơn. Ðiều thứ hai là cũng đã đặt được những vấn đề dân chủ, đòi hỏi những môi trường cho sáng tác được tốt hơn. Vấn đề thứ ba là khẳng định 1 điều tôi cho cũng thú vị, đó là mỗi nhà văn thường có tư cách nghệ sĩ, tư cách công dân. Người ta hay nói rằng "đối xử với các nhà văn là chúng tôi đối xử với tính cách công dân, nghĩa là các anh làm sai thì tôi trị các anh vì cái công dân". Nhưng ngược lại, nhà văn đòi hỏi là, chính là nhà văn bao giờ cũng đạt cái ý thức công dân rất cao, và đòi hỏi được đối xử như công dân. Bởi vì vừa qua có nhiều sự đối xử với nhà văn, rõ ràng là đánh vào văn chương chứ không phải đánh trên tư cách công dân. Và thứ ba nữa, cũng đặt ra những vấn đề lớn cuả đất nước hiện nay, những gì mừng vui về sự đổi mới, nhưng cũng rõ ràng thấy những gì xuống cấp, những gì nhộn nhạo trong thời buổi kinh tế thị trường đang trong thời kỳ hỗn mang. Ðiều lo lắng đó rất đúng. Ðối với riêng tôi thì cũng có thú vị hơn, trong đại hội này, các nhà văn cũng bộc lộ mình rõ hơn, và như thế là chân dung, tính cách của các vị cũng được bộc lộ rõ hơn. Tôi nhìn ngắm thì cũng bổ xung được các tài liệu, để có thể làm thêm được cái chân dung trong tập Chân dung cuả tôi về các nhà văn, để lưu truyền các vị về hậu thế cho các con cháu.
TK: Anh vừa cho biết những nét đại cương cuả đại hội. Bây giờ anh có thể đi vào chi tiết một số sự việc cụ thể được không, thưa anh?
XS: Chị biết có một điểm này, lúc đầu, những người tổ chức cũng muốn tiến hành, chuẩn bị kỹ theo một hướng theo tôi nghĩ là có sự áp đặt. Cho nên về thời gian định là 3 ngày, tuy nhiên khi diễn biến thì các nhà văn, lúc đầu cũng thấy nản, nhưng sau đó thì ý thức cũng rõ hơn, và nhất là công chúng, kể cả trong nước, ngoài nước cũng quan tâm nhiều. Và sự quan tâm là đứng đắn, thế cho nên các nhà văn thấy không thể như thế được, và có cái đề nghị cũng rất gay gắt, nếu như vẫn tiến hành đại hội theo cách áp đặt không dân chủ như thế, thì một số nhà văn sẽ bỏ đại hội ra về. Vì thế cho nên sau đó đại hội cũng tiến hành một cách khác hơn và thời gian đáng lẽ 3 ngày thì cuối cùng kéo dài đến 7 ngày. Và cũng biểu hiện nữa là khi bầu một ban chấp hành thì cũng định bầu đến 15 người, nhưng cuối cùng thì bầu 1 lần được 5 người, và kiên quyết không bầu lại. Một điều cụ thể nữa là trong đại hội này họ cũng có ý định là định lên án, tìm cách đánh mấy tác phẩm trong đó có tác phẩm Nỗi Buồn Chiến Tranh cuả Bảo Ninh, nhưng rồi ý định đó không thực hiện được. Hay là có những phương án áp đặt những người lên tham luận, rồi áp đặt những người đưa ra để vào ban chấp hành thì cũng không đạt được điều đó.
TK: Theo anh thì hình thức hội Nhà văn như hiện nay có còn thích hợp nữa hay không?
XS: Tôi cũng thấy rõ và tôi cũng phát biểu trong đại hội rất rõ ràng, mô hình tổ chức hội Nhà văn hiện nay nó không còn thích hợp, nó không còn thích hợp mà phải thực hiện 1 cách khác làm sao đó cho nó thích hợp. Vì chủ yếu tôi cho rằng quyết định nền văn học là mỗi nhà văn với sự cô đơn thầm lặng cuả mình với cây bút, mấy tờ giấy để mình ngồi với những sáng tạo cuả mình, nó sẽ quyết định nền văn học chứ không phải là chuyện hội hè. Một điều nữa là thực ra sự đấu tranh cho tự do dân chủ không phải chỉ cho các nhà văn, mà chính là cho nhân dân, cho đất nước. Thế còn đối với nhà văn tôi cũng quan niệm như thế, tức là không phải văn học lúc nào nó cũng đi cùng chiều với sự phát triển cuả xã hội mà trong lịch sử thì tôi nghĩ như bà Hồ Xuân Hương, cụ Nguyễn Du không phải ở thời kỳ thịnh trị, mà cũng không phải ở thời kỳ dân chủ, nhưng những vị tiền bối ấy đã ý thức được sự tự do cuả mình, và dũng cảm thực hiện cái tự do cuả mình bằng những tác phẩm bất hủ. Vì thế cho nên những nhà văn hiện nay tôi nghĩ cũng ý thức điều đô Ý thức là mình phải vượt khỏi cái môi trường và chính trong thời đại có nhiều biến động, lộn xộn hiện nay chính là mảnh đất, là môi trường cho những tác phẩm văn học.
TK: Anh ở trong quân đội thì cũng xin tạm dùng danh từ quân đội, là hiện nay trong mặt trận phê bình có nhiều hiện tượng đặt biệt đáng chú ý, anh xem có thể vẽ chân dung được không?
XS: Tôi thấy hiện nay sự phê bình ồn ào một cách thật là hơi vô lối. Có mấy cái biểu hiện thế này tôi thấy là một dấu hiệu tốt, đấy là 3 nhà phê bình mà theo tôi đó là những người phê bình vừa có năng lực, vừa có tâm huyết, là các anh Nguyễng Ðăng Mạnh, Lê Ngọc Trà và Vương Trí Nhàn. Các anh ấy tự rút tên ra khỏi Hội đồng Lý luận của hội Nhà văn. Không phải là vì các anh tiêu cực, mà biết rằng vào hội đồng đó với một thành phần như thế, là các anh không thể hiện được ý định cuả mình và chỉ thêm mang tiếng. Tôi nghĩ đó là 1 biểu hiện tốt. Vừa qua có những cuộc phê bình tôi cho là phi văn chương. Có những kẻ phải nói thực là rất dốt nát và hung hãn. Cho nên tôi nghĩ cãi nhau với những cái như thế nó không đáng gì. Thế nhưng tôi cho đó cũng là biểu hiện tốt. Qua một số tiếp xúc, nói chuyện với công chúng rộng rãi, trình độ của họ bây giờ rất khá, họ biết phân biệt. Thế cho nên những kẻ như thế, lộ rõ bộ mặt như vậy và bây giờ, ngay bây giờ họ đã phải trả giá. Nghĩa là họ viết cái đó không phải từ trong tâm vì những nguyên cớ nhiều khi rất là hèn, cho nên nếu tranh luận bằng văn học thì cái điều đó không xứng đáng. Tuy nhiên qua điều đó, cũng có điều sàng lọc, và qua cái đó, người ta cũng nhìn được cái gì là đúng, cái gì là chân chính.
TK: Thưa anh nhưng mà cái hiện tượng có những bài nội dung đánh vào văn học, hơn là làm văn học như thế có nhiều không, và có được hưởng ứng không anh?
XS: Tôi thấy rất mừng là một thiểu số, và cái thiểu số đó thì hiện nay có thể giải thích được, tức là những người đó sẽ làm như thế, trước kia có thể họ khác, nhưng họ có thể làm như thế. Bởi vì cũng nói thực với chị, tôi cũng là người theo dõi họ mà, nên tôi cũng không ngạc nhiên, và tôi nghĩ là mừng bởi vì mình chỉ sợ như thế này: Họ kéo được 1 số đông làm việc đó thì mình đáng lo. Ðiều đáng mừng là một số người làm chuyện làm thuê làm mướn ấy thì cái tình hình đó tôi thấy là không đáng ngại gì. Chính sự qua đó thì rồi cái gì nó sàng lọc, cái gì còn lại thì tốt. Nhưng về phiá khác nếu nhìn chung ra, tôi thấy có nhiều bài viết phê bình, đánh giá văn học nó thật sự văn học, tuy đúng sai cần phải bàn thêm, nhưng mà rõ ràng là cũng có những bài muốn đặt ra những vấn đề nghiêm chỉnh. Cũng thấy rằng trong thời kỳ hiện nay, cái lý luận nói chung theo tôi nghĩ là đất nước mình có nhiều hoàn cảnh, thực ra nó lạc hậu và bây giờ mình muốn tiếp cận được sự tiên tiến, mình phải có bước cố gắng thì dấu hiệu đó cũng là mới bắt đầu, cũng là một tín hiệu đáng mừng.
TK: Thưa anh, trước khi từ giã, xin hỏi anh 1 câu hỏi chót, ở trong báo Văn nghệ mới đây, trong cái chương trình cuả hội nhà văn dự định sẽ mở những trại viết văn, thì anh là người chuyên về châm biếm, trại viết văn người ta có thể nhầm những trại cải tạo hay cái gì đại khái như thế. Theo như anh cái này là một ý niệm thực hay đùa?
XS: Nó như thế này, thực ra thì cái trại này hiện nay nó lại ngược lại cái ý đấy chị, không phải là trại cải tạo như nghiã cuả nó, nhưng nó là trại tập chơi. Tôi cũng vừa được biết một danh sách cuả trại vừa mở, thì tôi thấy những người đó chẳng qua là họ muốn đi nghỉ mát, nhất là trại Ðà Lạt, tôi cũng nói thật với chị, tôi cũng không hy vọng gì về cái họ viết ra đó, nếu có nói về cái phía khôi hài, thì họ đi chơi cho vui, bởi vì ở trại được chăm sóc hơn, bồi dưỡng hơn. Còn việc mà với cái nghiã khi xưa thì hiện nay cái đó cũng không có, hoặc là nó cũng không như trước nữa, nhưng thực ra sau khi chọn lọc ban chấp hành Nhà văn, thì ngay bản thân ban chấp hành, con số ban chấp hành có một cái chân khác không chịu bỏ chân khác vẫn giữ cái chân cũ đề phòng cái khác đi. Tôi cũng không tin được cái việc lâu dài cuả họ, cuả tờ báo Văn nghệ vừa rồi xu hướng như vậy. Cho nên tôi nghĩ những cái việc chung quanh nó không thật, chưa thật là nghiêm chỉnh.
TK: Xin cảm ơn nhà thơ Xuân Sách.
(transcribed from recording tape, by Viet Hoang)
Trận Chiến
(phần 1)
Tôi đang xếp lại bàn ghế của phòng học nhà thờ cho ngay ngắn thì Hào bước vào. Vừa thấy tôi, Hào hỏi:
- Sao?
Tôi mới dọn từ Idaho về đây được mấy tháng. Thấy tôi ở trên đó một mình, Hào rủ tôi xuống đây tìm việc làm để hai đứa được gần nhau. Bạn bè thân từ Việt Nam qua đây chỉ còn lại hai người. Sau mấy tháng, Hào kêu tôi đi dạy Việt ngữ cho các em. Tôi với Hào nhận dạy lớp các em từ mười bốn đến mười tám tuổi; các cô giáo đã dành hết các lớp nhỏ tuổi vì sợ học trò lớn tuổi phá phách. Và bây giờ Hào đang hạch hỏi tôi về cảm giác sau hôm đầu đi dạy.
Tôi cười:
- Khó nói quá, mày ơi. Hôm đầu mà.
- Mày thích thì nói đại cho rồi. Nhìn mặt mày cười tao cũng dư biết mà.
Mà Hào biết tôi thật. Bây giờ tôi cũng không hiểu tại sao tôi lại ngần ngại lúc Hào hỏi tôi có muốn đi dạy hay không cách đây mấy tháng. Ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, Hào chỉ ra sân và nói:
- Chỉ chờ ba mẹ của mấy đứa nhỏ ngoài kia đến rước tụi nó nữa là xong.
Tôi ngó ra ngoài sân có hai đứa trẻ đang chơi với nhau. Và một đứa đứng riêng. Thằng Chương. Tôi nghĩ đến thằng Chương, và một câu hỏi bật ra:
- Thằng Chương, mày nói cho tao nghe về thằng Chương đi Hào.
Từ một thế ngồi thoải mái, Hào bật người dậy trố mắt nhìn tôi:
- Mày cũng nhận ra là nó lạ nữa sao? Tao tưởng chỉ có mình tao thôi chứ!
- Tao cũng không biết nữa. Thằng bé nó... làm sao ấy...
Hào nhìn thằng Chương đang đứng ở ngoài sân một mình, rồi thở dài. Hào chỉ chiếc ghế bên cạnh; tôi ngồi xuống trong khi giọng Hào cất lên thật nhẹ, thật đều:
- Mày thấy nó lạ hơn những đứa khác, phải không Nhân? Ðể tao kể cho mày nghe. Thằng Chương qua Mỹ cách đây sáu năm. Chỉ có hai mẹ con. Ba nó chết ở Việt Nam, nghe nói là ở trại cải tạo. Mẹ của nó giữ nhà cho một gia đình nhà giàu người Mỹ. Hai mẹ con được cho ở trong một căn phòng của ngôi nhà đó. Cách đây nửa năm tao ra chợ Việt Nam thấy nó đánh lộn với một đứa bé Việt Nam khác. Tao nhào vô can. Bà mẹ của đứa nhỏ kia la ó um sùm, chửi bới mẹ con thằng Chương bằng những lời thậm tệ. Nào là thằng mất gốc, nào là mẹ thằng Chương là thứ ở đợ , làm thuê. Tao đưa hai mẹ con về nhà. Dọc đường mẹ của Chương mới kể cho tao nghe về cuộc sống của họ.
Ngừng lại trong giây lát, Hào chậm rãi mồi một điếu thuốc rồi kể tiếp:
- Mày biết không, mẹ của Chương một tuần bảy ngày lo dọn dẹp, nấu nướng cho chủ nhà. Ðêm lãnh đồ về may để kiếm thêm tiền gửi về Việt Nam giúp thân nhân. Thằng Chương qua đây năm vừa tám tuổi. Ngày ngày vô trường học với đám con ông chủ nhà cũng bằng tuổi nó. Mày thấy đó, đến như mình mà còn thỉnh thoảng chêm tiếng Anh vô tiếng Việt. Huống hồ gì nó. Nhất là ở cái tuổi mười ba, mười bốn. Mẹ của Chương cố gắng lắm đó chứ, cho nên đến hôm nay thằng Chương mới còn hiểu và nói được tiếng Việt, mặc dù nó vẫn viết và đọc trong khó khăn.
Hào đứng dậy và bước ra ngoài bậc thềm lớp học. Tôi bước ra theo. Ngồi xuống bên Hào, tôi hỏi:
- Và mày đã đề nghị cho thằng Chương đi học lớp Việt ngữ ở đây?
Hào gật đầu. Có hai phụ huynh đến rước con về. Họ vẩy tay về phía chúng tôi. Chúng tôi chào lại. Thằng Chương còn lại một mình, nhưng nó có vẻ hài lòng với sự một mình đó. Tôi hỏi tiếp:
- Nhưng tao thấy như vậy cũng chưa đủ để cắt nghĩa về thằng Chương. Tao thấy nó học chăm hơn những đứa khác, cố gắng nhiều hơn, nhưng nó lại xa lánh những đứa khác. Tại sao?
Ánh mắt của Hào nhìn về chỗ đứng của thằng Chương thật hiền hòa:
- Mày phải hiểu nó. Sống bên những đứa trẻ nhà giàu, thằng Chương mang cái mặc cảm với sự thiếu thốn, dành dụm của mẹ nó. Nó đâu phân biệt được những gì gọi là quốc hồn, quốc túy. Nó chăm học chỉ tại vì nó muốn đọc được và viết được tiếng Việt để người ta không gọi nó là thằng mất gốc. Thế thôi. Bởi mỗi lần như thế, nó biết mẹ nó buồn. Mày thấy đó, nó đâu có tha thiết gì với ngôn ngữ Việt Nam đâu. Trong thâm tâm, nó muốn được như mấy đứa nhỏ con ông chủ nhà. Ở nhà nó bị những đứa con ông chủ nhà chơi trên đầu, trên cổ mà cũng phải ráng nhịn vì sinh kế của hai mẹ con nó. Vô trường nó lại mang mặc cảm bị thua kém, chối bỏ bởi những đứa trẻ Việt Nam khác. Nhưng dù sao nó cũng là một đứa con có hiếu, mày đồng ý không?
Tôi gật đầu và nghĩ đến hình ảnh một người góa phụ nuôi con lớn lên nơi xứ người. Một mặt phải lo cho con ăn học, một mặt phải lo gửi tiền về bên nhà cho thân nhân duy trì cuộc sống - ngay cả lúc cuộc sống từng ngày của bản thân mình bên này cũng thật là bấp bênh. Trước 75, giữa chiến tranh, mẹ Chương cũng như bao người đàn bà Việt Nam khác phải gánh chịu thật nhiều thiệt thòi để thay chồng tần tảo nuôi con. Sau chiến tranh, qua xứ Mỹ, là một nơi dư thừa vật chất, mà vai trò của người đàn bà Việt Nam vẫn không nhẹ đi chút nào, nếu không muốn nói là có phần nặng nề hơn. Hình như định mệnh đã dành cho những người mẹ, người vợ Việt Nam thật nhiều thiệt thòi, bất hạnh. Ðáng phục nhất là trải qua bao thăng trầm, họ đã vẫn vượt qua tất cả những gian truân với một tình thương tuyệt đối cho chồng, cho con. Như mẹ Chương chẳng hạn. Lo cho đứa con mình đang xa dần ngôn ngữ, sợ nó mất gốc mà gần như là bất lực. Ði làm ban ngày, may mướn ban đêm. Sống từng ngày như một cơn sốt, giờ đâu mà dạy tiếng Việt cho con.
Giọng Hào trở nên tha thiết:
- Mày nhìn thằng Chương, mày có thấy gì không? Ở trong lòng nó là một trận chiến văn hóa thật là khốc liệt. Một bên nó muốn được như những đứa trẻ Mỹ khác, nhưng chính những đứa Mỹ đó đã khinh khi và nhắc nhở cho nó về một sự khác biệt của màu da và tiếng nói. Một bên nó muốn lánh xa những đứa trẻ Việt Nam khác, nhưng nó lại phải cố gắng học tiếng Việt bởi không muốn bị mắng vốn là thằng mất gốc, bởi mẹ nó sẽ buồn. Những gì gọi là Việt Nam đối với nó là một sự ràng buột xốn xang, mày thấy không?
Tôi im lặng đồng ý. Hào nói tiếp:
- Mày xem. Tao với mày năm nay hai mươi lăm tuổi. Mình hơn thằng Chương có mười tuổi. Xét ra, mình có hơn gì nó đâu ngoài biết đọc và biết viết tiếng Việt rành hơn nó. Mày với tao tiếng Việt nhiều khi dấu hỏi, dấu ngã còn đánh trật tùm lum. Qua đây mười năm, mình cố gắng lắm mà thỉnh thoảng cứ chêm tiếng Anh vô tiếng Việt. Huống hồ gì những đứa trẻ như thằng Chương với cuộc sống hiện tại của nó.
Tội gật đầu. Giọng Hào bỗng dưng xót xa:
- Tao với mày rời Việt Nam năm mười lăm tuổi. Cỡ tuổi thằng Chương bây giờ. Mày thấy đó, tụi mình đâu đem theo được bao nhiêu điều trong lòng mà có thể thực sự gọi là quê hương đâu. Cùng lắm là vài hình ảnh mường tượng trong trí nhớ. Mày biết không Nhân, tao bây giờ nhiều lúc chỉ thèm được một lần cúp cua đi chơi ở vườn Tao Ðàn, một lần ăn bò bía Bưu Ðiện mà thôi. Nghe các anh chị lớn kể lại mình cũng đủ thấy thèm, nào cần gì phải mơ ước xa xôi chi đến đi thăm Huế, Quảng Trị hay Hà Nội. Hình ảnh rõ ràng về quê hương nhất của tao là lần chạy giặc Tết Mậu Thân. Mẹ tao tay xách cái giõ, tay kia dắt em tao chạy về phía lồ-cốt. Tao tay nắm cái bị quần áo nhỏ chạy theo. Năm đó tao mới tám tuổi, nhưng đó là cái đêm tao nhớ rõ nhất. Súng nổ vang quanh mình, đại bác bắn ầm ầm. Trên trời hỏa châu cứ phực sáng, phực tắt. Mày cũng vậy. Có khác gì tao đâu. Mày thấy không, quê hương trong mình thật nghèo nàn. Tụi mình sống ngất ngư trong đó. Ðâu có học hỏi, thu thập được bao nhiêu. Vậy mà cũng đòi đi dạy. Trong khi chính mình cũng cần phải tự học lấy. Các thầy cô cũ chỉ muốn làm cố vấn. Mình hiểu, họ còn phải lo cho cuộc sống của riêng họ nữa. Ðòi hỏi gì đây?
Hằn học dụi tàn thuốc xuống đất, Hào ray rứt nói, như với riêng mình:
- Mày thấy đó, mình nói ra cũng thừa. Bởi nghĩ cho cùng, đâu ai bắt mình làm đâu. Bày ra chuyện làm, thì có đuối cũng ráng chịu. Ai biểu ngu, hăng tiết vịt làm chi, mày thấy không. Mày biết , nhiều lần tao cũng muốn bỏ cuộc, vì nản. Nhưng nhìn những đứa như thằng Chương thì tao bỏ cuộc không đành mày ạ. Bởi tao nhìn nó, thấy thương, vì nó là hình ảnh của mình mười năm về trước. Cho nên tao nghĩ, nếu mình không thể cho nó một quê hương thì ít ra mình cũng nên chia nó những gì gọi là quê hương mình có trong lòng, dù chẳng là bao nhiêu. Nhưng tao đâu có muốn dạy tiếng Việt để nó nói như một con vẹt mà không có một ý niệm gì về hảnh diện ngôn ngữ, màu da. Nên lớp học của mình không có nhiều bài làm mà nhiều sinh hoạt hơn. Biết đâu, qua những sinh hoạt đó mình có thể cấy vào tâm hồn nó một chút gì gọi là quê hương, là dân tộc. Ðể có một ngày lớn lên, nếu nó muốn, nó có thể tự tìm về. Tao tin là nó sẽ tự tìm về, vì màu da của nó đã là định mệnh. Mình mong sao nó sẽ hãnh diện với cái định mệnh đó. Thằng Chương giống như một đứa bé đang hụt bơi giữa hai giòng văn hóa mày thấy không? Mình cũng vậy, có hơn gì nó đâu. Có khác là mình bơi khá hơn chút đỉnh thì cũng cố mà đeo nó theo để bơi về phía bờ văn hóa Việt. Mình phải tự cứu mình, Nhân ạ. Chờ phao người ta thảy xuống, thì sợ lúc đó mình đã chết đuối rồi. Có thể tao tiêu cực, nhưng tao tin rằng tao thực tế. Mình đang chết khát, người ta hứa đem nước cho mình uống. Nhưng không lẽ không biết tự đi kiếm nước lấy mà uống. Ðôi khi thực tế có nghĩa là tích cực cụ thể hóa những gì mình ao ước, mày hiểu tao không Nhân?
Tôi hiểu thằng bạn mình. Và ngạc nhiên, bởi chưa bao giờ tôi hiểu nó như bây giờ. Và gần nó hơn ở những điều chúng tôi nhìn thấy. Lớp học này chẳng hạn. Ngoại trừ một số phụ huynh tha thiết cho con em mình đi học tiếng Việt đã tự động đem con em mình đến lớp thường xuyên, đa số các em là do Hào và các bạn "kiếm" lấy. Chữ "kiếm" nói thì nghe hơi... thảm, mà đúng. Giáo viên vốn bất đắc dĩ nên học trò cũng bất đắc dĩ luôn. Phải thông cảm cho các em nhỏ, một tuần vô lớp học năm ngày, bài làm muốn bở hơi tai. Có em còn phải đi làm phụ thêm cho sinh kế gia đình. Cuối tuần lại phải đi học thì thật là khó khăn cho các em thu thập. Giáo viên muốn có học trò để dạy, phải đi năn nỉ phụ huynh cho con em đi học lớp mình. Tình nguyện đưa đón luôn, nếu cần. Chúng tôi đang làm văn hóa đây sao? Nghĩ mà buồn. Nhiều cha mẹ cuối tuần phải đi chợ, đem con nhỏ theo khó coi chừng, "tiện đường" họ thả con cho đi học. Ði chợ xong đến rước con về, có khi giữa giờ học. Chúng tôi chỉ là những người giữ trẻ đối với họ - không hơn, không kém. Tôi hiểu Hào. Mình không trách phụ huynh được vì mỗi gia đình có một hoàn cảnh khác nhau. Hơn nữa, mình đang cần có học trò để dạy mà ăn nói lạng quạng mất học trò cũng nên. Bây giờ người ta lo sống trước đã, văn hóa cho con cái cần phải bảo tồn là chuyện phụ. Mang tiếng là giáo viên mà thật ra chẳng khác gì người giữ trẻ. Chúng tôi hiểu thế. Chấp nhận. Và xót xa - mình giữ cho mình còn chưa xong, mà dám đi giữ con cho người khác. Nhưng chúng tôi cứ nghĩ rằng nếu mình cứ tình nguyện giữ trẻ cho phụ huynh, biết đâu những lúc đó mình có thể mang đến cho các em một vài khái niệm về quê hương và dân tộc. Biết đâu được, chỉ mong thôi.
Tôi yên lặng. Hào cũng vậy. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ của riêng mình. Của chung. Ðến khi mẹ của Chương đến rước Chương về, chúng tôi chào bà ấy. Xong, Hào đứng dậy bảo:
- Thôi, bây giờ tao ra hạ cờ. Mày đi khóa cửa các phòng học lại rồi mình về. Còn phải lo cho ngày Nhân Quyền nữa.
Với lời nói đó, Hào bước về phía cột cờ giữa sân. Tôi nhìn theo bóng Hào. Thương nó. Thương chính mình. Hai đứa chúng tôi không cô đơn bởi biết còn rất nhiều người trẻ như mình lắm trên thế giới này. Nhưng chúng tôi lạc lõng. Và hụt hẫng. Nén một tiếng thở dài, tôi quay gót về phòng học.
(xem tiếp phần 2)
Nguyễn Phước Nguyên