vhnt, số 81
10 October 1995
Trong số này:
+ thư tín
+ 1 - thơ, Thương Anh, Ngọc Tuyết
+ 2 - thơ, Mênh Mông Cuộc Đời, Ðặng Khánh Vân
+ 3 - thơ, Tiếng Động Lá, PCL
+ 4 - văn, Chuyện Tình Tự Kể, Phan Chín/Dung Nguyen
+ 5 - thơ, Họa thơ "Biển Mơ", Hoàng Trâm
+ 6 - viết ngắn, Mưa... Mưa, Và Mưa, Sung Nguyen
+ 7 - thơ, Mừng Cho Bằng, Tien Doan
+ 8 - âm nhạc, Về Nhạc Sĩ Lê Thương (part I), Phạm Duy
Anh ở xa
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút
đã cô đơn
Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh
đến tím
Sóng chẳng đi đến đâu
nếu không đưa em đến
Dù sóng đã làm anh
Nghiêng ngả
Vì em
(Thơ Viết Ở Biển, Hữu Thỉnh)
Tình yêu là một điều kỳ diệu, nó có thể làm cho nghiêng núi, biển chao sóng, và nhuộm tím cả chiều. Tình yêu làm nghiêng ngả thi sĩ, và thi sĩ làm nghiêng ngả thơ. Yêu là một loại "special effect" làm chao đảo nhiều điều trong đời sống, không cứ gì trong thơ văn. Tình yêu làm cho người ta vui, người ta buồn, người ta hy vọng, người tuyệt vọng, người ta sinh ra trăm ngàn tâm trạng... Thì cứ hãy yêu đi, yêu chân thật không làm hại ai, yêu làm cho ta thêm giầu có phong phú tâm hồn. Yêu một chiều, yêu hai chiều, yêu trăm chiều, yêu mọi chiều, thì cũng vẫn là yêu.
vhnt số này đăng một bài trong tập hồi ký của nhạc sĩ Phạm Duy viết về bạn ông là nhạc sĩ Lê Thương. Bài viết do chính Phạm Duy gửi cho anh Ngô Minh Ðức, và anh Ðức đã gửi chia sẻ với bạn đọc vhnt. Xin cám ơn anh Ngô Minh Ðức.
PCL/vhnt
Thương Anh
Thương Anh vất vả đêm ngày
Một mình một bóng, gia đình lìa xa
Một lần rỏi mẹ vắng cha
Là một lần đã bôn ba với đời
Thương Anh luôn nở nụ cười
Lạc quan tin tưởng khi đời khổ đau
Dù cho cuộc sống bể dâu
Vẫn không chùn bước, tiến mau với đời
Em không mộng ước sang giàu,
"Nhà cao cửa rộng", "ông này bà kia"!
Chỉ tham một nỗi Anh hiền,
Mẹ Cha anh kính, bạn hiền anh thương!
Ngọc Tuyết
(for PTV) :-) **
Mênh Mông Cuộc Đời
Bằng đôi mắt...
nhìn đời xuyên khe cửa
Bằng con tim...
nhìn đời xuyên mộng mị
Bằng ảo tưởng...
nhìn đời xuyên mây trắng...
Ôi! quá mênh mông
Ôi! quá tuyệt vời
Cuộc đời....
chơi vơi
vẽ vời
buông lơi
... giữa trời!
DKV
Tiếng Động Lá
tôi khát
như dòng sông không mưa...
từ sa mạc trở về
chân bước vào quên lãng
tiếng động im rơi
lá trút linh hồn
vỡ trên triền lá
bóng tối hoang sơ
tiếng khóc nụ cười
lời ru ngày xưa
dư vị mùi hương bão tố
hát trên miền lá
phấn hương rơi
cây nở cuộc đời
dòng sông thôi mưa
từ thế kỷ trăng tôi trở về
ảo mờ hưng phế
hánh xương rồng bỏ quên
dưới mặt trời rực rỡ
nhạt nhòa tiếng nói từ câm nín
nước chảy qua đời tôi
tay vuốt mặt che kín nỗi niềm
ướt thời gian hệ lụy
chào nhé mùa lá phai
êm như hơi thở
chìm vào lòng đất
xào xạc thơm rơi
chiếc lá động
cuối cùng
người ghé qua dòng sông
cảm thông vội vã
đêm, tôi nói chuyện với ảo ảnh
ném lời vào hư không
hãy thức với tôi
dòng sông khô mùa hạn
nào hãy vàng lên
quá khứ
PCL
1992
"Chuyện tình tự kể" là một mục trong báo Tuổi Trẻ, chuyên chọn đăng những sáng tác về mối tình đầu của chính các tác giả. Dĩ nhiên, kết cuộc của những mối tình ấy đa số là không thành, nhưng các tác giả đều hạnh phúc và bùi ngùi khi nhớ lại "thuở ban đầu lưu luyến ấy". Phải chăng họ đã tự an ủi mình bằng hai câu thơ: "Tình chỉ đẹp khi còn dang dở... Tình mất vui khi vẹn câu thề" ?
Dung Nguyen
GIÓ KHÔNG THỂ CUỐN ÐI
Và đã đến lúc tôi và em phải chia tay nhau. Những tháng năm học trò đẹp như một giấc mộng và cuộc chia tay như một tiếng chuông làm cho tôi thức giấc. Tôi chưa hề nói gì với em và vì vậy tôi có thể mất em. Do đó, rất vội vã và cũng rất lóng ngóng, tôi đã nói với em điều thầm kín ấy. Ðôi mắt em mở to tròn xoe, tôi cảm nhận được những rung cảm nhẹ nhàng mà thẳm sâu nơi em từ giây phút ấy.
Rồi hai đứa chia tay nhau. Em vào đại học, thực tế hơn tôi nên học kinh tế tận Sài Gòn. Tôi mộng mơ nên ôm vở vào ngồi ghế khoa văn ở Huế. Tôi viết thư cho em và đợi ch Lần đầu tiên tôi cảm thấy thời gian lê thê... Thư hồi âm của em chỉ có hai dòng:"Con trai khoa văn nói trăng nói mây. Liệu gió có cuốn đi không?" Tôi sung sướng quên cả ăn trưa, nằm lăn ra sàn nhà đọc thơ Nguyên Sa, Nguyễn Bính... Lời tôi nói với em trong buổi chia tay dạo nào đã không bị gió cuốn đi!
Hai đứa viết thư cho nhau đều đặn mỗi tuần. Và mỗi lần đọc thư em, tôi đều nhắm mắt để hình dung ra giọng nói và điệu bộ của em. Em là con chim cánh mỏng bay xa, em là làn sương nhẹ tinh khôi của một buổi ban mai yên lành nơi đồng nội. Những lá thư em, tôi xếp cẩn thận trong một góc của chiếc va li nhỏ. Gió chẳng thể nào cuốn bay.
Mùa hè đại học đầu tiên, em và tôi khăn gói về quê. Em lạ lẫm, ra con gái thị thành, duy chỉ có ánh mắt vẫn còn thăm thẳm, vẫn lấp lánh như những vì sao giữa cánh đồng xa. Tôi vẫn cứ quê mùa và ngốc nghếch. Lần đầu tiên tôi cầm tay em sau hơn một năm ngỏ lời hò hẹn, từng ngón tay run run, xao xuyến, bồi hồi...
Năm học mới lại đến, em gửi thư cho tôi bằng một...băng cassette. Em muốn tôi nghe trọn từng âm sắc trong lời em nói, từng độ rung tinh khôi của ngôn ngữ tình yêu. Em đặt tên cho lá thư băng bằng một câu nhắc nhở: để gió khỏi cuốn đi! Rồi hai đứa đã gửi thư cho nhau bằng cách đó.
Nhưng mà cuối cùng gió đã cuốn em đi mất, xa đến nửa vòng trời. Những lá thư tôi, em phong kín lại cho vào một kiện hàng và gửi trả. Bên dưới dòng chữ: From: Thảo-California, USA, em ghi thêm một câu nho nhỏ: đừng để gió cuốn đi!
Vâng, năm tháng ấy gió chẳng thể nào cuốn đi.
Phan Chín
(Khoa ngữ văn, DHTH Huế - TT 17/8/1995)
Chào các bạn,
HT xin hoạ chữ cuối của bài thơ này và đi ngược dòng thơ bằng ý mình. Vì không đủ thời gian, chỉ xin hoạ nữa bài.
Biển Mơ
người ta bảo, tình vơi theo ngày tháng,
sao tình mình chưa trọn đã tàn phai,
khi yêu nhau cứ ngỡ sẽ đẹp hoài,
như giấc mộng Hè xưa, chiều hôm ấỵ.
chiều hôm ấy bên nàng nơi biển vắng,
một buổi chiều có gió nhẹ về ngang,
có thuyền ai giữa triều sóng lên đèn,
anh còn nhớ đã thì thầm, sao biển
chiều hôm ấy trời nhiều mây giăng lối
nên chim trời ngơ ngác chẳng buồn bay,
ngồi bên nhau trên ghềnh đá trơ gầy
nghe sóng nhỏ thay lời nào không nói...
rồi đêm giăng, gió thôi về, em nhỡ
biển chợt buồn, anh bảo, biển làm thơ
đêm không trăng, ngàn sao cũng không về,
cho lẻ bóng, hải đăng sầu trăn trở
em ngắt đi một cành hoa cỏ úa
để thẫn thờ khẽ hỏi chuyện đôi ta
mãi về sau có như biển đêm này,
hay héo úa từng Thu sang đổ lá
hoa cỏ khô vàng bên bờ biển vắng
có phải vì mưa thôi chẳng còn vương,
hay hạt gieo trên cát mặn khô cằn,
nên héo úa sau mùa Xuân thật ngắn
ta đã mong cho thời gian dừng bước,
cho đêm dài ôm mãi giấc mộng mơ,
cho ngày mai thôi không đến bao giờ,
cho tình mình đẹp mãi như vần thơ
ta từng mơ xây lâu đài trên biển,
như dã tràng mộng xe cát từng đêm.
rồi em đi khi phố nhỏ lên đèn,
trong lặng lẽ, như mưa đêm biển vắng...
ngăn bước em? anh không là tất cả,
mà chỉ là ngọn cỏ úa chiều xưa,
mãi chờ mong hạt nước nhỏ quay về,
bên dốc đá, dù một lần vội vã.
trời bên ấy có mưa vào tháng Sáu?
cho em buồn khi ai hát bài ca,
trời dù mưa, chắc gì em đã nhỡ
nhớ làm gì, những kỹ niệm xa xưa
anh từng chiều nhìn mây về bên núi,
từng nhủ thầm, phương ấy chắc người vui
nên thư đi chẳng được mấy thư về,
rồi Thu chết, Ðông tàn trong lặng lể.
chiều anh đến một mình bên bãi vắng,
đếm bước dài trên cát trắng miên mang
nghe lòng đau khi nắng tắt im lìm,
nghe hồn mình lịm chết mỗi hoàng hôn
thà đừng biết, đừng quen nhau ngày ấy
biết chi rồi, cho thắm nửa làn môi
thà đừng hứa, đừng trao nhau tình ấy
yêu chi rồi trong khoảnh khắc đầy vơi
anh đã thôi xây lâu đài bên sóng,
thôi ghé về ghềnh đá cũ thân thương
nhưng giấc mơ ngày tháng cũ năm nào,
xin mãi đẹp, như chiều hoang, biển vắng...
TSKT
oOo
rồi hoang vắng ngập đầy trên biển vắng
em đến đây ngưỡng cửa giấc mơ nào
thân đá già mờ xoá vết thân thương
đâu cát bụi của lâu đài trước sóng
yêu những gì mà khoảng khắc đầy vơi
ai điêu khắc lời ngây thơ thuở ấy
có biết rằng tình trọn giữ bờ môi
và giữ mãi trong đời từ dạo ấy
em đặt hồn mình trên bãi hoàng hôn
ngồi lắng yên xem nắng xuống im lìm
nghe sóng rào reo nỗi nhớ miên mang
thời gian cũng muộn màng trên bãi vắng
tưởng mình như cánh chim trời lặng lẽ
bay mãi đi không nuối tiếc ngày về
cuối phương trời lạc loài gió tìm vui
nào có biết mây còn bên kia núi
của nơi đây mờ ảo ảnh tình xưa
có đôi mắt trói em vào nhung nhớ
có nhạc buồn khi người cất giọng ca
nhưng không có anh tình sầu tháng sáu
rồi mùa thu anh hỏi thăm vội vã
em sợ chiều mây nắng yếu chẳng về
nắng bây giờ đủ trải khắp lối xưa
nhưng nắng mới đã không còn chi cả
tay lành lạnh hay tình mình hoang vắng
thắp biển xanh trời lóng lánh ngọn đèn
thôi giã từ biển chìm xuống màng đêm
ta nhớ ai mà mộng dài trên biển
Hoàng Trâm
Mưa... mưa và mưa
(viết ngắn)
Tôi gặp em vào buổi chiều mưa mùa Hạ; chiếc nón lá mỏng manh xoay vần vẫn không che nổi những làn mưa ngịch ngợm, đùa giởn với tóc em. Tôi say đắm nhìn em qua làn mưa mỏng; nàng cười thẹn thùng. Nụ cười em mới ấm làm sao!
Tôi đã thấy được ngày xưa qua đôi mắt của em, thật thơ ngây, hồn nhiên và trinh trắng. Cơn mưa chiều gắn với mối tình tôị. Tôi yêu em hết tuổi học trò, say đắm với bao chiều hò hẹn, những nụ hôn gần như bất tận, nhưng rung động đầu đời mấy ai dể nguôi quên. Ôi cuộc tình không tên vì không ai định nghĩa. Mùa Hạ cuối cùng, tan trường, tình tôi cũng tan như cơn mưa Hạ. Em chạy theo nắng mùa Thu vàng quyến rủ. Em ơi, em đã xa tôi và để lại bao muộn màng đau khổ. Con tim tôi không thể trả lời, những phụ bạc, những lời giả dối. Tôi giận trách em cùng với thời gian.
Tôi không thể yêu ai khi trong tim hình bóng em luôn ngự trị những cơn mưa, những nụ hôn còn thắm, những bức thư tình còn vuơng hương thơm. Nhớ môi mềm, những đêm dài gởi hơi ấm cho nhau; nhớ mái tóc tơ đã trói chặt tôi vào chăn gối, khi xa rồi vẫn khao khát không nguôi. Hãy trả lại tôi những ngày tháng phiêu bồng, trong tình đó dù là em giả dối. Em cứ nhận dù em không muốn, những thư tình và những môi hôn.
Daytona 95
Sung Nguyen
Mừng Cho Bằng
"Chuyện của Bằng" bao nhiêu nước mắt (1)
Cũng phận người sao quá đắng cay!
Hóa Công sao nỡ đọa-đày?
Tuổi thơ đã chịu những ngày đơn-côi
Ðoàn-viên giờ phút cận rồi
"Qua cơn bĩ cực, tới hồi thái lai"
Nâng ly rượu chúc cho ai
Mẹ con xum-họp, ngày dài bên nhau
Mẫu-từ nhật xuất ruộng dâu (2)
Con về nương bóng đêm thâu lạnh-lùng
NTP
05Oct95
(1) Lãng Tử Nhân, vhnt #76
(2) Câu này mượn từ câu "Nhật xuất tang điền", mặt trời vừa lên khỏi ruộng dâu, ý nói tình của mẹ ấm-áp như nắng buổi ban mai.
Về nhạc sĩ Lê Thương
Sau khi tôi post bài "Hòn Vọng Phu & nhạc sĩ Lê Thương" thì nhạc sĩ Phạm Duy có email đến cho tôi bài viết của ông về nhạc sĩ đồng nghiệp Lê Thương, để tặng tôi và những người yêu nhạc. Ðoạn trích này có trong "Hồi Ký Phạm Duy, tập 3: Thời Phân Chia Quốc Cộng". Xin cám ơn nhạc sĩ Phạm Duy. Xin chia sẻ cùng các bạn.
LIF :*)
Về Nhạc Sĩ LÊ THƯƠNG
Phạm Duy
Trong số những bạn đồng nghiệp này, tôi yêu nhất nhạc sĩ Lê Thương. Rời Bến Tre, anh về Saigon làm nghề thầy giáo. Căn nhà nhỏ của anh đường Võ Tánh là nơi tôi đến chơi hàng ngày, hoặc rủ anh đi mua báo Pháp như PARIS MATCH, CANARD ENCHAINE ở hiệu sách PORTAIL đường Ca- tinat... hoặc rủ anh đi ăn, đi chơi. Lê Thương làm thơ, làm nhạc rất bay bướm nhưng anh có cuộc sống rất giản dị. Người bạn trăm năm của anh không thuộc hạng tiểu thư lá ngọc cành vàng hay nữ sinh nhí nhảnh. Chị Lê Thương là người bình dân hiền lành mộc mạc, không bao giờ "nhẩy sổ" vào công việc của chồng, suốt đời lẳng lặng trông nom săn sóc chồng con. Trước đây, tôi chỉ biết Lê Thương qua những bài hát tình yêu rất hay như Bản Ðàn Xuân, Thu Trên Ðảo Kinh Châu, Một Ngày Xanh, Nàng Hà Tiên... và Phần I của truyện ca bất hủ Hòn Vọng Phu. Bây giờ, tôi được biết thêm những bài anh soạn trong thời Cách Mạng và Kháng Chiến. Vào những năm đầu của cuộc chiến Nam Bộ, cũng như hầu hết những người trai của thời đại, Lê Thương đã có những đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh chống xâm lăng, giành Tự Do Ðộc Lập của toàn dân. Một trong những bài hát có ảnh hưởng lớn trong dân chúng lúc đó là bài Bà Tư Bán Hàng:
Bà Tư bán hàng có bốn người con Thằng Hai đã lớn, ba em hãy còn học theo các trường nhưng chửa thành nhân. Năm Ðộc Lập kia trong nước Việt Nam Mấy con của bà đều lên lối đường Ðầu quân chiến trường theo ý người dân.
Thì ra Lê Thương cũng đi vào kháng chiến để tạo những huyền thoại về người mẹ Việt Nam. Trong khi tôi chọn những bà mẹ ở thôn quê (Bà Mẹ Chiến Sĩ, Bà Mẹ Gio Linh) thì anh chọn nhân vật điển hình là Bà Tư bán hàng trong thành phố, một người mẹ bình dân có bốn người con, vào năm Ðộc Lập kia (...) đều lên (...) đường kháng chiến. Lê Thương dùng ngôn ngữ của dân tộc để kể tiếp :
Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên Suốt ba năm liền bà Tư mẫu hiền Ngày đêm khấn nguyền cho mấy người con.
Rồi khi người con lớn chết trận thì bà thắp hương khấn vái hương hồn người con tử sĩ, xin dẫn dắt mấy đứa em trở về thành phố để sống với bà. Nhưng bà nhận được ba lá tình thư của ba đứa con xin được ở lại chiến khu để chiến đấu. Bà Tư thắp đèn cầu khấn người con Bà xin cho mấy đứa em hãy còn ở trong núi rừng, anh dẫn về cho. Nhưng một ngày kia ba lá tình thư nói: Con bây giờ đường xa cách trở Vậy xin kính thờ hai chữ tình thân.
Bài hát kết thúc với sự ý thức của Bà Tư bán hàng về việc tự nguyện đi làm bổn phận công dân của các con. Bà tôn trọng ý nguyện đó và thắp đèn cầu nguyện cho các con mình trong chiến khu có được cuộc sống anh hùng. Trước đây, tôi hi vọng một bài ca như Bà Mẹ Gio Linh có thể làm cho bộ đội dễ dàng lao vào đồn giặc, bây giờ, sau khi nghe bài Bà Tư Bán Hàng, tôi tin chắc chắn bài hát này làm cho thanh niên Saigon-Chợ Lớn ào ạt ra chiến khu. Và phải đợi ba năm nữa mới có trận Ðiện Biên Phủ nhưng tôi tin rằng kháng chiÚến nhất định phải thành công. Dù tác giả đã vào thành - nghĩa là cũng "dinh tê" như tôi! - bài hát vẫn còn đó, vẫn còn sức đẩy thanh niên trong những thành phố miền Nam đi kháng chiến. Ðó cũng là một trong những lý do để anh Lê Thương sẽ bị giam trong khám Catinat trong 120 ngày cùng Trần Văn Trạch và tôi, chuyện này sẽ nói tới trong những trang sau.
Lê Thương vào thành rất sớm. Vào năm 48, anh soạn bài Hoà Bình 48. Trên thế giới, chiến tranh lạnh đã khởi sự với việc Nga Sô phong toả Berlin và Hoa Kỳ dùng cầu không vận để tiếp tế cho dân chúng trong thành phố bị phong toả. Ở trong nước, sau khi Bảo Ðại vận động với Pháp để được thừa nhận là Quốc Trưởng của một nước Việt Nam tuy độc lập và thống nhất nhưng phải gia nhập Liên-Hiệp-Pháp với tư cách một quốc gia liên kết, chánh phủ Nguyễn Văn Tâm đã được thành lập. Cờ vàng ba sọc đỏ và bài Thanh Niên Hành Khúc của Lưu Hữu Phước đã được chọn làm quốc kỳ và quốc ca. Chính phủ quốc gia cũng như người Pháp cố tạo ra một không khí hoà bình.
Vào thời đó, nằm trên trục tuyên truyền của phe tả, chim bồ câu được chọn làm biểu tượng cho hoà bình. Hoạ sư nổi danh Picasso vẽ hình ảnh con chim bồ câu ngậm một chiếc lá, trông rất khoẻ mạnh. Nhưng anh Lê Thương của chúng ta cho rằng con chim đó đang bị đau nặng:
Con chim hoà bình đang đau nặng... Ngày và đêm càng thêm lo lắng Ðang lo chùi mài dao gươm đặng Chờ ngày mai đem ra giết nhau...
Với bài hát phổ biến vào năm 48, trước hết, Lê Thương đã có cái nhìn ra quốc tế trước tôi. Phải tới thập niên 60 tôi mới soạn những bài hát như Người Lính Trẻ, Chuyện Hai Người Lính... đả động tới việc Việt Nam có thể đang làm cuộc chiến tranh ủy nhiệm của hai cường quốc Mỹ-Nga, dù rằng khi tôi từ Thanh Hoá về Hà Nội (1951), thấy có chiến tranh ở Triều Tiên thì tôi nhìn nhận thế giới đã chia ra hai phe rõ rệt. Tôi đã cho rằng bất cứ một cuộc nội chiến ở một nước nhỏ nào - ngay từ bấy giờ hay là về sau - cũng chỉ phản ảnh cuộc chiến giữa hai phe Tư Bản và Cộng Sản.
Bài Hoà Bình 48 là loại nhạc "châm biếm-chính trị" (satire politique) do Lê Thương dẫn đầu. Ngoài ý nghĩa chính trị, tác giả dùng ngôn ngữ đặc sệt miền Nam với những chữ như '' Tây vực '', ''đặng '' : Stalin cười hỏi sang Tây vực Xin các ông chớ khiêu khích tôi! Truman cười khì ôm kho bạc Nhử mồi, Tây Âu càng bối rối...
Bài này còn đả động tới cảnh xã hội miền Nam trong bối cảnh chiến tranh Việt Pháp: Anh Ba Tàu ngồi kia nhậm xà Chị hàng rong mải lo ai đá Chú bán chè đậu xanh lo mời Thầy dùng thêm một hai chén thôi!
Lúc đó vỉa hè thành phố Saigon đầy rẫy những hàng bán rong của người bình dân. Ðội xếp thường tới đánh đuổi họ bằng những cái đá. Qua bài Hoà Bình 48, Lê Thương nói với chúng ta rằng: Làm gì có hoà bình khi thầy đội xếp tới đấm đá những gánh hàng rong hay đòi ăn hối lộ vài ba bát chế... Trong bài hát còn có câu: Rồi hàng đêm cà nông cứ ho. Nghĩa là: làm gì có hoà bình vì trong đêm cứ nghe hoài tiếng súng "canon" cất tiếng ho.
Lê Thương còn soạn thêm những bài ca châm biếm như Liên Hiệp Quốc, Làng Báo Sài Thành, Ðốt Hay Không Ðốt (nói tới chuyện cô Quờn vì quá ghen mà đốt chồng bằng dầu săng, làm náo động dư luận Saigon-Chợ Lớn). Ðó là những bài hát tủ được vào nằm trong nhạc mục những bài ca hài hước của Trần Văn Trạch gồm các bài Téléphone, Cái Ðồng Hồ, Chuyến Xe Lửa Mùng Năm... Về phần nhạc cảnh, ba bản Hòn Vọng Phu của Lê Thương do ban Thăng Long diễn cũng là cái đinh của những buổi nhạc hội. Có thể nói những bản nhạc của Lê Thương là phần hồn trong quá trình ca diễn của chúng tôi trong những năm đầu thập niên 50 vậy. Lê Thương cũng là người chuyên soạn nhạc cho thiếu nhi, thiếu niên qua những bài Thằng Cuội, Tuổi Thơ... Bài Học Sinh Hành Khúc anh tung ra lúc đó là một bài hát đầy tinh thần ái quốc. Về sau, bài Bà Tư Bán Hàng và bài Học Sinh Hành Khúc phổ biến đến độ có những lời ca nhại: Học sinh là người hủ tiếu ăn hai ba tô... Bà Tư bán hàng có bốn người yêu Người yêu thứ nhất đi xe máy dầu...
Tôi vẫn quan niệm bài hát nào có lời ca nhại là bài hát thành công nhất. Tôi cũng cho rằng trong làng Tân Nhạc, Lê Thương là người trí thức nhất. Mỗi bài nhạc, mỗi giai đoạn nhạc của anh đều chứa đựng thông điệp. Qua những bài vừa soạn ra, ta thấy một thứ "triết lý thời loạn" của anh. Người nghệ sĩ này, khi đi vào cuộc đời và cuộc chiến, đứng hẳn về phía kẻ yếu. Bao giờ cũng vậy, khi có chiến tranh thì người dân bị trị lâm vào cảnh "một cổ đôi ba tròng". Người nghệ sĩ không phải là một hiệp sĩ " cứu nhân độ thế " nhưng có bổn phận an ủi ha y nói hộ người dân. Là một nhà giáo, anh Lê Thương còn đứng vào địa vị của người ưu thời mẫn thế để soạn những bài như Ðừng Có Lo Lắng trong đó anh đưa ra một sự thật muôn đời : "cao nhân tất hữu cao nhân trị". Bài hát có những câu: Nghèo thì lo thiếu, giầu thì lo mất đi xe hơi (ô tô) có khi bị choáng u đầu... Châu Do còn bị Gia Cát Chín nút còn sợ ba tây Mac Arthur tiên sinh còn phải về vườn.
Với bài này, Lê Thương nói : chưa chắc ai đã thắng ai trong cuộc chiến này, vậy thì xin người dân đừng lo, đừng buồn. Cũng giống như anh nói : "sức mấy mà lo, mà buồn" vậy! Tuy rất kính phục anh bạn hơn tuổi nhưng nhìn vào tác phẩm của Lê Thương rồi gẫm thân nghệ sĩ của mình, tôi thấy khác anh trong vài khía cạnh. Có lẽ lúc đó tôi còn ít tuổi và còn đầy sự hoài nghi về cuộc đời và về thân phận mình nên không tự coi đã nắm được thời thế. Trước mọi nghịch cảnh, tôi không dám lên tiếng dạy đời, dạy người. Trong thời gian đi kháng chiến, tôi luôn luôn muốn thể nhập vào thực tại để thể hiện những tình cảm khác nhau. Khi đấu tranh, có Xuất Quân, Nợ Xương Máu, khi dính líu tới lịch sử, có Việt Bắc, Ðường Lạng Sơn. Khi gặp thiên nhiên, có Nương Chiều, Thu Chiến Trường, gặp tình não nề, có Tiếng Ðàn Tôi, Tình Kỹ Nữ, tính cuộc trăm năm là có Ðêm Xuân, Chú Cuội và khi bất cần đời thì vượt Cầu Biên Giới... Không có gì là ưu thời mẫn thế trong những bài hát đó cả! Về sau, khi cuộc chiến leo thang, cuộc đời trở nên ê chề và tuổi mình đã cao, tôi mới thể nhập và thể hiện một cách khác, nghĩa là đem nội dung đạo đức đặt dưới hình thức tục tằn qua MƯỜI BÀI TỤC CA.
Ổn định cuộc sống và nói cho ngoa là đã thành công trong năm đầu tiên di cư vào Nam, tôi được hưởng luôn một bài học đáng giá của đời người trong một xã hội có cạnh tranh chính đáng hay bất chính. Trước đây, vô tư như một con bướm mùa Xuân hay ham vui như một con chuồn chuồn giấu tổ, tôi bước vào đời với tất cả tấm lòng trinh trắng, không hề phải thi đua với ai và chưa bao giờ bị ai cạnh tranh với mình cả. Tôi vào cuộc sống với tư cách một ca sĩ nhà nghề và khá nổi danh. Nhưng phải nói cho rõ là vào đầu thập niên 40, ca sĩ chuyên nghiệp dù thành công đến đâu cũng chỉ là "hữu danh vô thực", nghĩa là danh vọng (!) thì có thể không ít mà tiền tài thì không nhiều. Nổi tiếng rồi nhưng so với đào kép Cải Lương, tiền lương của tôi rất nhũn nhặn. So với ca sĩ các nước tân tiến, tiền lương đó lặ "giẻ rách". Trong nghề hát ở Việt Nam lúc đó, tôi cũng chẳng có tới quá hai hay ba địch thủ. Thời tiền chiến, cả nước chỉ có hai anh chàng hát "nhạc cải cách" chuyên nghiệp. Dần dà, sau Tino Thân và tôi, mới có thêm Kim Tiêu và Mai Khanh thì hai cậu này là "a-ma-tơ" thứ thiệt! Rồi khi cùng toàn dân đi kháng chiến, ca sĩ như tôi trở thành "văn công" ngay lập tức, nghĩa là được nhà nước xung công để ca hát phục vụ cho người lính và người dân, được nuôi ăn bằng gạo, sắn và khoai, có lĩnh thêm chút tiền cụ Hồ để uống cà phê và cắt tóc.
Bây giờ thì khác, con bướm nhởn nhơ hay con chuồn chuồn la đà đã trở thành con ve sầu rộn ràng của một Saigon quanh năm mùa Hạ. Nó vẫn làm nghề ca hát và chỉ khác xưa ở chỗ đã có trách nhiệm gia đình, dù vợ con là nợ nần nhỏ, chưa phải là một gánh nặng. Nó cũng khác con ve sầu tài tử trong ngụ ngôn của La Fontaine, ayant chanté tout l'été, se trouva fort dépourvu quand la brise fut venue ... (Văn hào Nguyễn Văn Vĩnh dịch là : ve sầu kêu ve ve suốt mùa hè, đến mùa gió bấc thổi, nguồn cơn thật bối rối ) vì đã có Ðài phát thanh, có người mua bản nhạc hay đĩa hát, có khán giả coi phụ diễn chiếu bóng hay Ðại Nhạc Hội trả tiền đầy đủ cho con ve chuyên nghiệp. Tại thành phố Saigon lúc này - a ha - từ một loài sâu đất đã thoát xác ra một đàn ve sầu khá đông đảo, chen vai thích cánh trong một cái chợ khá lớn, có khá nhiều cái nguýt lườm của những hàng thịt, hàng cá.
(XEM TIẾP PHẦN II ở vhnt số tới)