vhnt, số 161
16 March 1996
Trong số này:
thư vhnt................................................................PCL
T h ơ :
1 - Giòng sông đau thuở cội nguồn lìa xa ...........Lê Công Thọ
- Nhớ mẹ .................................................Lê Công Thọ
2 - Ngày xưa ..............................................Hồ Anne Thảo
3 - Anh em ................................................Trần Thái Vân
4 - Trời/nắng/gió/sương/biển/anh/em/thơ .........Trần Thu Hồng
5 - Gió ...................................................Mimosa Ngọc Nga
6 - Nhớ ......................................................Trần Chung
D i ễn Ð àn / S i n h H o ạt V ă n H ọc :
7 - Tự do và đỉnh cao nghệ thuật -
Giới trẻ đã được trang bị những gì .............Ðức Lưu
8 - Tin tức / Sinh hoạt văn học hải ngoại ............Dung Nguyen ghi
9 - Tư Tưởng đẹp ........................Nguyễn Ðình Tý sưu tầm
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
10- Thương nhớ đồng quê (2/2) ...................Nguyễn Huy Thiệp
"Diễn dịch cảm xúc"
Thưởng thức âm nhạc là một cách diễn dịch cảm xúc. Tại sao có người thích nhạc cổ điển tây phương, nhạc jazz, nhạc blue, có người lại thích pop, và rock? Càng ngày âm nhạc càng trở nên quan trọng, đóng vai trò rất lớn trong đời sống con người. Có thể biết đâu một ngày nào đó người ta sẽ chẳng còn đọc nữa mà chỉ nghe thôi ? Sự im lặng tuyệt đối cũng là một hình thức của âm nhạc, vì trong im lặng, người ta vẫn có thể nghe được cái vô cùng của thinh lặng. Có rất nhiều danh sư đã cắt nghĩa ý nghĩa của âm nhạc, như thánh Augustine, Nietzsche, Schopenhauer, nhưng chắc hẳn có không ít người (như tôi) chẳng hiểu gì hết về nó. Dường như trong một lãnh vực ta không biết tới, lãnh vực đó càng mênh mang và lớn rộng, mông lung trong ta hơn là những vùng đã được khám phá (một cách giới hạn). Âm nhạc là một lãnh vực lớn, vừa xa vừa gần, Nếu có ai đó hỏi tôi: tại sao lại thích đoạn nhạc đó, tại sao cứ nghe đi nghe lại bản nhạc nhàm chán đó hoài, thì tôi không thể trả lời vì tôi cũng không hiểu tại sao. Một hôm học trò của Schumann nghe thày dạo một đoạn etude phức tạp và khó hiểu, khi Schumann ngưng liền hỏi thày giảng nghĩa tấu khúc vừa dạo, Schumann bảo: "Nghe đây", rồi ông dạo lại đoạn nhạc đó thêm một lần nữa. Âm nhạc tự nó giải thích cho chính nó, chính kẻ làm ra nó cũng chẳng hiểu tại sao. Có lẽ khi người ta không thể bộc lộ mình bằng một phương tiện nào khác hơn (như nói, viết, làm thơ ...), thì người ta làm âm nhạc hay nghe nhạc để diễn dịch cảm xúc!
oOo
Mở đầu cho cuối tuần, xin chúc bạn đọc những ngày chớm xuân nghỉ ngơi nhàn nhã, và xin dành một chốc lát trong ngày để thưởng thức những sáng tác của các bạn văn vhnt.
thân ái,
PCL/vhnt
Giòng Sông Ðau Thuở Cội Nguồn Lìa Xa
Lá vàng vừa nhẹ nâng tay
Ðã nghe tuyết phủ quanh đây nẻo đời
Ngày tôi cùng tháng năm trôi
Sinh ly - những vết chém chơi vơi buồn
Nghe trong từng tiếng mưa tuôn
Giòng sông đau thuở cội nguồn lìa xa
Chiều đau tia nắng sau nhà
Niềm đau xa mẹ gọi tà dương tôi
Một tôi lỡ khóc, lỡ cười
Một tôi nửa ngợm, nửa người với tôi
Buồn tôi chỗ đứng, chỗ ngồi
Mẹ tôi bóng ngả lên đời - Niềm vui
Ðêm quanh tôi dẫu bời bời
Mẹ, trong tôi - ánh mặt trời sáng soi
Nhớ Mẹ
Mến tặng những ai đang còn bỏ lại người mẹ ở quê hương!
Thu qua chi cho đông đến vội vàng
Cho tuyết phủ lan tràn từng nẻo phố
Cho năm tháng trôi qua chừng quá độ
Cho lòng con đau khổ bởi xa quê
Mẹ có hay lòng con quá não nề
Vì thương nhớ mẹ ơi mẹ có biết
Con với mẹ tuy cách xa biền biệt
Nhưng lòng con chỉ biết có mẹ thôi
Bao tháng năm nổi trôi nơi xứ lạ
Con của mẹ không khóc cũng không cười
Cười sao được khi đời con cô độc
Khóc làm chi khi khổ nhọc còn nhiều
Ðã bao chiều thầm nói với mẹ yêu
Dù đời con có trăm điều buồn tẻ
Cũng không bằng đời mẹ đã vì con
Tlê
230296
Tlê tên thật là Thọ, Lê Công Thọ, năm nay 23-tuổi học ở tại trường đại học Helsinki (Helsinki University of Technology).
Ngày Xưa
Ngày nào đó đôi chân chưa mệt mỏi
Mắt sáng ngời khi lòng dạt dào vui
Ðầu ngẩng cao ta hãnh diện với đời
Trái tim nhỏ còn trinh trong khờ dại
Ngày nào đó lòng ta chưa xao động
Sống hồn nhiên giữa đô thị người đông
Vui với nhạc, với thơ cùng hoa lá
Thật bình yên thế giới một mình ta
Ngày nào đó vỡ tan bao giấc mộng
Ngẩn ngơ nhìn thế giới lạnh lùng xoay
Sao người đến cho đất bằng dậy sóng
Lấy gì đây hàn gắn vết thương lòng ?
Ta cúi mặt mệt nhoài đôi chân bước
Mắt lệ buồn, tim khóa chặt than ôi
Hãy im đi môi miệng của muôn người
Và trả lại ta tháng ngày êm ả
05/95
H. A. Th.
Anh Em
Tặng a. h.
Mẹ sinh em tháng tám
Suýt chút nữa ngày rằm
Nên tính em mơ mộng
Mê thơ, lại... nghịch ngầm
Anh cũng sinh tháng tám
Sớm hơn em vài hôm
Tuổi giống nhau kỵ lắm
Sao lại như anh em?...
Anh miền trung xa lắc
Quanh năm lụt lội mưa
Cha mẹ em miền Bắc
Sinh em... dân di cư
Anh một lần khóc mẹ
Em một lần tiễn cha
Mình tuổi thơ là thế
Nên tình cảm chan hòa
Ðời anh chưa ngã ngũ
Ôi một đời lãng du
Buồn vui nào không thử
Trong những cuộc tình bù
Em loanh quanh phố nhỏ
Sáng đạp xe học xa
hiều về ngang ngõ chợ
Nghiêng cặp sách thật thà
Mình gần nhau lứa tuổi
Nên cùng thời mộng mơ
Những ngày trời gió nổi
Cùng viết một bài thơ
Thơ viết hoài không gặp
Giờ đã bao nhiêu năm
Em chép thơ đầy tập
Anh gửi tình xa xăm
Mây trời nhiều thay đổi
Nên mình là anh em
Mượn lời thơ nhàn rỗi
Viết tặng tình êm đềm...
Út V.
(3/06/96)
Trời
Giữa
Ký ức hừng đông
Niềm đau tắt nắng
- Một chỗ ngồi trong nhau.
Nắng
Cay đắng bình minh?
Hoàng hôn hạnh phúc?
- Khi bàn tay nắm một bàn tay.
Sương
Là trinh nguyên của lá
đọng qua đêm ?
Là ta trong khoảng nhớ
chờ đêm qua?
Gió
Bay
Lá vàng
Thì thầm...
Lời gọi thiên thu.
Biển
Kỷ niệm rong rêu?
Tình yêu sóng vỡ?
- Những ánh mắt nhìn nhau vội dấu.
Anh
Cơn lốc xoáy.
Làn gió thoảng.
Cánh chim khuất xa.
- Dấu chân hằn vết thương trắng cát.
Em
Sương -
Long lanh trong nắng?
Tan trong nắng?
Tim -
Hạnh phúc đậm sâu?
Vết thương sâu?
Thơ
Những tia nắng vàng vô tư xếp hàng trên giấy trắng.
Nắng vô tư vàng?
Giấy vô tư trắng?
Trần Thu Hồng
(& N.)
Gió!
Mạnh mẽ và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Gió không hiểu nổi mình
Gió thổi vùng xa lạ
Một cơn gió hôm nay
Có làm anh chợt nghĩ
Hay là anh đã quên
Chuyện mình như gió thoảng.
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Em chỉ biết một điều
Tình mình như là gió
Gió có thổi phương Nam
Hay ngược về phương Bắc
Nơi nào gió sẽ nghĩ?
Nơi nào gió sẽ ngừng?
Chuyện tình mình là gió
Thoảng nhẹ lúc xuân thì
Ðến mang bao hương thắm
Nhưng thổi về nơi đâủ
Mimosa Ngoc Nga
Nhớ
sáng hôm nay ở đây mây nhiều lắm
tôi một mình bước lẻ dưới trời mưa
nhớ đến em nhớ biết mấy cho vừa
khăn lụa nhỏ bay bên chiều vàng nắng
tôi thường viết bài thơ trong trắng lắm
để ngây thơ ngự trị ở trên ngôi
nhưng hôm nay tôi nhớ một màu thôi
Màu xanh đậm bởi vì em yêu mến
em xinh quá như mùa thu vừa đến
tựa giòng sông chảy mãi chẳng ngừng trôi
dấu yêu ơi xin dừng lại bên tôi
cho giọt nắng chiều mây đừng phai vội
thương nhớ quá tôi thì thầm bên gối
gọi tên em rất khẽ rất dịu dàng
sợ âm thanh xao động buổi đông sang
em sẽ lạnh và buồn dâng lên mắt
dễ thương ơi chiều nay mưa hay nắng
để tôi về vẽ lại bóng hình em
trời làm mưa tôi nhớ tóc ướt mềm
nếu có nắng vẽ em cười trong gió
tôi sẽ đặt hình em bên cửa nhỏ
để đi về hai buổi được nhìn em
để nhớ thương rất nhẹ rất êm đềm
gom góp lại gởi về em bên ấy
cd
TỰ DO VÀ ÐỈNH CAO NGHỆ THUẬT - GIỚI TRẺ ÐÃ ÐƯỢC TRANG BỊ NHỮNG GÌ
Cách đây một tuần, một mục tin "thú vị" loan tải trên tờ tuần báo MỚI tại San Diego cho biết các ban nhạc Rock (mà giới trẻ Tây phương thường dùng để bày tỏ tâm hồn... nổi loạn) tại VN nay cần phải có... giấy phép trước khi muốn tự do .. nổi loạn. Nói một cách khác, cho đúng nghĩa với tinh thần bài viết, các nhà trình diễn âm nhạc (nghệ thuật) hiện nay tại quốc nội cần được cấp giấy phép để thổ lộ cái tư duy, cái cuồng nhiệt, tức cái tâm hồn nghệ thuật của mình vậy.
Sau đó, trang VHNT #160, số ra ngày 14-03-1996 có đăng tải hai bài viết rất thiết thực cho giới mộ điệu nghệ thuật nói chung, và đặc biệt giới văn học nói riêng hiện nay. Một bài là mục thư VHNT của PCL trích dẫn bài tham luận "Vương đạo và Bá đạo" của nhà văn Nguyễn huy Thiệp, và một là mục diễn đàn "Văn học gối vụ" của Văn Chính. Ba bài viết, trong cùng một lúc, đã tạo cho người đọc hình dung rõ rệt sự tương quan mật thiết giữa cái tự do và nghệ thuật sáng tạo.
- Bài tham luận đại khái khẳng định cái điều kiện CẦN để đi đến cái nghệ thuật tuyệt đỉnh trong sáng tạo nghệ thuật (VH là chủ đề tôi muốn áp dụng) là cái tự do tuyệt đối
- Phần mục tin trong tuần báo MỚI gián tiếp phô bày một cụ thể của sự gò bó trong sáng tạo nghệ thuật. Nó gián tiếp cho thấy cái không hội đủ điều kiện CẦN - thiếu tự do - đối với nghệ thuật, đó phải chăng là nguyên nhân đưa đến cái lủng lép nghệ thuật mà
- Mục diễn đàn của Văn Chỉnh đã than phiền trong kỳ trao giải thưởng VH của Hội Nhà Văn (HNV) 1993 rằng không một tác phẩm nào đủ điều kiện để đoạt giải nhất (tác phẩm truyện ngắn xin miễn bàn)
Chẳng cần tìm câu trả lời thích đáng, dẫn chứng cụ thể ra đấy. Âm nhạc là một nghệ thuật. Tư duy, nội tâm con người từ đấy được diễn đạt qua nh+~ng cường điệu, âm hưởng chọn lọc (nói nôm na là cho đúng... tông vậy) tuỳ theo cái cảm xúc khác nhau của từng cá nhân. Ðòi hỏi một giấy phép, tức đã đặt ra một giới hạn mà cái... tông "mùi mẫn" của mỗi cá nhân không được vượt qua. Như thế là không tự do, mà không tự do thì cái... tông mùi mẫn ấy làm sao lên đến tuyệt đỉnh trong cái nghệ thuật của nó được.
Vào đề chút nữa, trong địa hạt văn học, đã có bao nhiêu tác phẩm hay hiện được giảng giải rộng rãi ở những cấp Trung và Ðại học? Chỉ có thể đếm được trên đầu ngón tay, nếu tôi không lầm thì cũng chỉ loanh quanh nhấn mạnh những Tắt Ðèn của Ngô tất Tố, Bước Ðường Cùng của Nguyễn Công Hoan, Sống Chết Mặc Bây của Phạm duy Tốn và Chí Phèo của Nam Cao. Họ là những nhà văn lớn - không ai phủ nhận. Ðó là những tác phẩm hay - đồng ý. Nhưng không thể đòi hỏi một kiến thức tiềm tàng VH trong giới trẻ nếu chỉ cho họ được quanh quẩn làm quen suốt năm với một mớ xã hội quan liêu phong kiến thối nát lúc bấy giờ vậy. Chí Phèo và Thị Nở của Nam Cao thì có xa xôi, khác biệt mấy với vợ chồng anh chị Dậu của Ngô tất Tố? Nhiều nơi rộng rãi thì giờ hơn thì cũng qua loa giới thiệu, so sánh chút ít với thanh thiếu niên thế nào là cái nếp sống Tây và Ta (Ðoạn Tuyệt của Nhất Linh, Nửa Chừng Xuân của Khái Hưng), hoặc khôi hài trào phúng chút đỉnh thì cho giới trẻ tập tành phê phán lối ăn đòi Tây học (Số Ðỏ của Vũ trọng Phụng) - Thế thôi - Nhìn lại chặng đường hơn hai thập niên mà chỉ nuôi đúc nhiêu đó chủ đề vào tâm tư giới trẻ thì kỳ vọng không thành quả là điều không chẳng phải ngạc nhiên. Trong khi đó hàng vạn cái người hùng, nghị lực làm trai (Trường Ðời của Lê văn Trương, Anh Phải Sống của Khái Hưng) cái tình mộc mạc, chất phác của lối sống thôn dã (Con nhà Nghèo, Mẹ Ghẻ Con Ghẻ, Từ Hôn của Hồ Biể Chánh), hoặc cái hay, cái đẹp của người con gái VN khi phải bon chen với chợ đời lừa lọc (Bỉ Vỏ của Nguyên Hồng, Bốn Bức Tường Máu và Cánh Sen Trong Bùn của Lê văn Trương) v.v... và v.v... rất ít hoặc chưa từng đề cập tới trong lối phong trào giáo dục giới trẻ Văn học.
Quay sang lãnh vực thi ca. Nhất thiết cái tinh thần yêu nước, yêu dân tộc cần một thế đứng vững chắc, nhưng không vì thế mà cái xu hướng lãng mạn phải bị đánh mất trên thi đàn. Thử hỏi ngoài những mớ thơ vác súng, xây dựng... giới trẻ trong văn học đã được mấy phen làm quen với cái khí phách hào hùng của Thế Lữ; hồn thơ mơ hồ, man mác của Lưu trọng Lư, rạo rực, khao khát của Ðinh Hùng; trong sáng, thanh tao của Nguyễn nhược Pháp, ngậm ngùi của Hàn Mạc Tử, và gần gủI nhất, tiêu biểu, đặc sắc nhất trong làng thơ tình của Xuân Diệu?
Quá chuyên tâm nghiêng về một địa hạt nào đó (điển hình là địa hạt lên án giai cấp quan liêu trong hầu hết tác phẩm giảng giải) đã vô tình tạo một sự khô cằn trong làng văn vậy. Nói một cách khác, giới trẻ VHVN cần có nhiều điều kiện để phát huy thêm điạ hạt, mở rộng thêm tầm nhìn, được quyền tự do lưa chọn thoải mái hơn trong hướng đi văn học đặc thũ thích hợp của họ vậy. Không chỉ trong nghệ thuật VH mà tất cả những cái nghệ thuật khác, tư tưởng con người nếu chỉ hấp thụ, uốn nắn bởi một sự vun trồng gượng ép, gò bó, s~ dễ trở thành nghèo nàn, lạc hậu, và bị đánh ngã vì tự bản sinh nó, đã thiếu cái điều kiện cần - cái Tự Do tuyệt đối để lựa đúng một hướng đi thích hợp cho nó.
Các nhà cầm cán cân VH có quyền kỳ vọng vào giới trẻ, khẳng định họ phải đạt những thành tích đáng kể nào đấy, nhưng đôi lúc cũng nên bất chợt tự hỏi rằng mình đã tạo được đủ điều kiện và môi trường nhằm làm nền tảng cho giới trẻ hay chưa? Không có nhu cầu thích ứng tuyệt đối mà kỳ vọng ở một nghệ thuậttuyệt đỉnh cũng chẳng khác chi kỳ vọng một Hồ biểu Chánh đoạt giải văn học tối cao trong cuộc thi viết văn bằng giọng Bắc, hoặc kỳ vọng một Lê văn Trương với một tác phẩm xuất sắc viết theo lối văn Nam vậy.
DL
Với sự đồng ý của anh Le Dinh Dieu, chủ nhiệm báo ThếKỷ 21, tôi trích đăng và cô đọng một số tin tức sau đây có liên quan đến sinh hoạt VHNT hải ngoại.
Dung Nguyen
Nhà văn Phan Nhật Nam ra mắt sách
Báo Phổ Thông và một số hội đoàn ở Tây Úc vừa tổ chức cho nhà văn Phan Nhật Nam, từ Hoa Kỳ sang, một buổi sinh hoạt văn học vào chiều thứ Bẩy 27 tháng Giêng 1996, tại thành phố Perth.
Phan Nhật Nam sang Úc trong một chuyến đi dài, để gặp gỡ bằng hữu và độc giả của ông ở nhiều nơi trên nước Úc.
Tại Perth, khoảng 200 thân hữu đã tham dự buổi sinh hoạt, với sự điều hợp chương trình của Bình Anson, một cộng tác viên của báo Phổ Thông, và đại diện tạp chí Thế Kỷ 21, tại Úc.
Trong phần nói chuyện, nhà văn Phan Nhật Nam nói về hai đề tài: Tại sao người lính viết văn và tại sao tôi viết văn.
Suốt gần hai giờ đồng hồ, nhà văn đã nói với giọng tâm tình, cho thấy nỗi đau thương của người dân, sự chịu đựng hào hùng của người lính, trong suốt cuộc chiến, và những oan khiên của cả dân tộc duới những áp bức của người cộng sản.
Nhiều nghệ sĩ trong vùng đã đóng góp những tiết mục văn nghệ như phát, ngâm thơ. Ðặc biệt, cô Ngọc Thủy đã ngâm nhiều bài thơ của Phan Nhật Nam. Một số bạn lính và bạn tù của nhà văn cũng lên góp những tâm tình cùng "người lính viết văn Phan Nhật Nam."
Cuối cùng, nhà văn ký lưu niệm trên hai cuốn sách mới của ông. Ðó là hai tập bút ký, in tại Hoa Kỳ: Ðường Trường Xa Xăm, và Những Ðiều Cần Ðược Kể Lại. (BA ghi)
Nhà thơ Joseph Brodsky qua đời
Nhà thơ lưu vong gốc Nga, Joseph Brodsky, người từng đoạt giải thưởng thơ Hoa Kỳ 1991 và giải Nobel Văn chương 1987, đã qua đời hôm 28 tháng Giêng 1996 tại New York, thọ 55 tuổi.
Roger Straus, bạn thân và là người chịu trách nhiệm xuất bản các tác phẩm của Brodsky cho biết nhà thơ đã bị yếu nhiều từ sau cuộc giải phẫu tim năm 1979.
Thơ văn của Brodsky không mang màu sắc chính trị mà chỉ mô tả hoài bão đi tìm tự do của con người. Ngoài việc làm thơ, ông còn viết kịch và các bài phê bình.
Ông đã từng bị lưu đày ở vùng đất Nga Xô gần Bắc cực năm 1964, và bị cưỡng bách ra nước ngoài sống lưu vong từ năm 1972. Ông định cư ở Mỹ vào nhập tịch Mỹ năm 1980.
Ra mắt sách "Secret Army, Secret War"
Khoảng 200 khách đã tham dự buổi ra mắt sách của một cựu viên chức ngành tình báo Hoa Kỳ, là ông Sedgwick Tourison.
Cuốn sách viết bằng tiếng Anh, nhưng tác giả nói chuyện trong buổi ra mắt, tại quán Little Saigon ở thị xã Garden Grove, bằng tiếng Việt -- một thứ tiếng Việt lưu loát, bóng bẩy.
Với tựa đề "Secret Army, Secret War," ông Sedgwick Tourison (có tên Việt Nam là Lê Văn Tùng) nói về những người lính biệt kích của Việt Nam Cộng Hòa đã được đưa ra hoạt động ở miền Bắc khoảng thập niên 1960. Hầu hết người đi không về, vì chết hoạc bị bắt cầm tù - có người 25 năm.
Gần đây, chính ông Tourison là người đã "khui" một hồ sơ của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ để tìm ra danh sách những Biệt Kích này, và chứng minh họ có quyền được chính phủ Mỹ giúp đỡ đi định cư ở Mỹ nếu họ muốn.
Du Tử Lê nói chuyện về tùy bút của ông
Nhà thơ Du Tử Lê nói chuyện với bằng hữu và người yêu thơ ông về một cuốn tùy bút ông mới in. Ðó là cuốn "Chỗ Một Ðời Em Vẫn Ðể, Dành." Buổi sinh hoạt diễn ra tại Cà phê Tao Nhân, tối thứ Sáu 2 tháng Hai 1996.
Nhiều văn nghệ sĩ đã phát biểu cảm tưởng về văn và thơ của Du Tử Lê, nhấn mạnh đến "nỗ lực làm mới" văn chương. Gần đây, Du Tử Lê "lăng xê mốt" chấm câu rất lạ, rất "phi văn phạm." Chẳng hạn ngay tựa đề của cuốn sách: "Chỗ Một Ðời Em Vẫn Ðể, Dành." Nếu phân tích theo văn phạm, thì dấu phẩy (phết) đứng sau chữ Ðể và trước chữ Dành không có chức năng gì, ngay cả ý nghĩa của một ngừng nghỉ trước khi... đứt hơi -- ngoại trừ nhà văn muốn mô phỏng chữ cuối của một câu xàng xê, chờ phựt đèn màu!
Nhưng có cái mới nào không gây ngạc nhiên? Tháp Eiffel, trước khi trở thành biểu tượng của Kinh đô Ánh sáng Paris, đã từng bị chỉ trích và nguyền rủa.
Tô Thùy Yên ra mắt tuyển tập thơ
Tuyển tập thơ Tô Thùy Yên gồm 37 bài (đã giới thiệu trong mục Sách Báo Trong Tháng, TK 21 số 80), tác giả tự xuất bản. Một số thân hữu của tác giả ở Minnesota, nơi ông đang cùng gia đình cư ngụ, vừa tổ chức cho ông một buổi sinh hoạt ra mắt sách tại thính đường trường Saint Paul Technical College, chiều thứ Bẩy 13 tháng Giêng vừa qua... Ông Phan Thanh Tâm, trong phần giới thiệu tác giả, cho biết nhà thơ Tô Thùy Yên có tên khai sinh là Ðinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gò Vấp. Theo ông Tâm, Tô Thùy Yên là một "nhà thơ chịu chơi hết xẩy," vì trong lúc ai cũng thích nghe hai tiếng "đô la" nhìn màu xanh của tờ giấy bạc, nhà thơ lại chủ trương "nghe im lặng mà sống," và "nhìn trời xanh mà vui."
(Lược trích từ TK 21 số 83/March 1996)
Tư Tưởng
Nhìn trên cao,
Học rộng thêm nữa,
Tìm cách lên cao mãi.
Pasteur
Tôi đọc chẳng những cho trí thức mở mang, mà còn để cho
tâm hồn thanh thoát nữa.
Eugenie de Guerin
Cái gì cũng nhàm chán cả, trừ ra học hỏi.
Virgile
Thương Nhớ Đồng Quê
(tiếp theo, phần 2/2)
Ðồng vắng lặng. Tiếng ếch ộp oạp. Tiếng ễnh ương rất vang, rất to. Tiếng côn trùng rỉ rắc. Mưa. Mưa miên man.
Tôi cầm đèn pin, chân xéo bừa lên các chân rạ ẩm ướt. Ếch có nhiều, đờ đẫn dưới ánh đèn, chỉ cần bắt vào rỗ. Sấm sét nổ vang trời. Chớp loé sáng. Vũ trụ mở ra vô cùng vô tận. Gió ào ào, nghe như có muôn vàn cánh chim bay đang vỗ trên đầu. Một cảm giác kinh dị xâm chiếm toàn thân khiến tôi bủn rủn. Tôi rõ ràng thấy có một bóng hình vĩ đại đang lướt nhanh qua, đang chuyển vận mãnh liệt trên đầu. Tôi nằm áp xuống bờ rạ, tâm trạng bàng hoàng, thổn thức. Tôi tin chắc ở lực lượng siêu việt bên trên tôi kia, đang chuyển vận rầm rộ kia, thấu hiểu tất cả, phân minh lắm, rạch ròi, chắc chắn bảo dưỡng tính thiện trong tâm linh con người, có khả năng an ủi, âu yếm đến từng số phận. Ðiều ấy khiến tôi an lòng.
Tôi đã đúng.
Tôi an lòng bởi sự lựa chọn hình thức biểu đạt này
Hình thức khó khăn, tầm thường, vô nghĩa, phù phiếm.
Ðể sáng danh giá trị thiện tri thức
Trên cánh đồng hoang này
Cánh đồng hoang của mê muội và cái ác nhởn nhơ
Ai đấy?
Ai cất lên tiếng sáo nỉ non trong đêm
Và những anh linh nào, những hồn ma nào quờ quạng
Tiếng thở nào rất khẽ
Nụ cười nào rất khẽ
Cất lên ghê rợn từ hàm răng trắng
Những tiếng thì thầm nào
Những lời rên rỉ côn trùng, không nghĩa lý gì
Chỉ riêng tiếng sáo mục đồng nhỏ nhoi, phiêu bồng
Ði hoang trên cánh đồng lòng
Ði hoang trên cánh đồng người
Kẻ tha nhân nào sống sót
Gã tri âm nào lắng nghe
Cội rễ nào gọi về
Rung tiếng tơ đồng
Ðêm vô minh nay còn ai thức chong
Ai rảo bảo phiêu du trên đồng
Trong cõi trần ai mênh mông?
Mưa ngớt dần. Tôi đi qua khoảnh ruộng này, khoảnh ruộng khác. Bọn ếch cũng biến đâu mất. Thỉnh thoảng chỉ thấy một con nhái bén phóng vào theo rạch nước. Thấp thoáng chân trời phía vòng cung Ðông Sơn ánh lửa le lói. Tôi cảm giác thấy mình lạc hướng. Tôi không biết bây giờ là mấy giờ nhưng bỗng nhiên nghe thấy tiếng gà kêu. Tiếng gà kêu khắc khoải, chẳng trình tự gì, khi đổ hồi, khi tiếng một. Tôi đi lúc lâu chẳng thấy có con ếch nào, bỗng nhiên nhận ra mình đã lạc đến tận rạch sông Cấm lúc nào không biết. Trên trời, đơn độc một vì sao Mai.
Mãi đến tận mờ sáng tôi mới lần về đến rìa làng. Không khí rất sạch. Làng quê quen thuộc, yên tĩnh. Sau mưa, quang cảnh hiện lên vừa đỏm dáng, vừa tinh khiết.
Qua nhà thím Nhung, tôi dừng lại. Ngôi nhà nhỏ nép ven đường. Phên liếp hé mở. Một bóng người vội vã lách ra. Người ấy trông trước trông sau rồi vụt chạy nhanh vút sau bụi duối. Trộm chăng? Tôi định kêu lên thì nhận ra chú Phụng. Một lát, Thím Nhung mở cửa bước ra, vẻ bình thản, mặc bộ váy ngủ phong phanh. Thím Nhung hơn ba mươi tuổi, người cân đối, xinh đẹp.
Tôi xách giỏ ếch đi sau chú Phụng. Ðến chỗ rẽ, chú Phụng ngoái lại thấy tôi. Chú Phụng hỏi :"Ếch có nhiều không ?". Tôi không trả lời. Chú Phụng thoáng giật mình. Chú căn vặn :"Mày sao thế ?". Tôi bỗng thấy buồn da diết. Tôi buồn cho thím Nhung, buồn cho chú Phụng, cho ông giáo Quỳ. Tôi buồn cho tôi.
Chú Phụng bỏ đi, vẻ bất cần. Tôi về nhà. Hóa ra cũng chỉ có khoảng hai chục con ếch. Chị Ngữ bảo: "Chẳng bổ. Thế mà cũng đi suốt đêm". Mẹ tôi cười: "Chắc cu cậu vừa bắt ếch, vừa ngủ gật". Cái Minh sửa soạn đến trường để sinh hoạt hè. Nó mặc quần phăng xanh, aó trắng, đây là bộ diện nhất mà nó chỉ mặc trong dịp hội hè. Cái Minh ghé tai tôi bảo: "Em biết anh đi đâu rồi, nhưng em không nói. Không phải anh đi bắt ếch". Cái Minh cười. Tôi nhìn vào mắt nó. Nó biết. Tôi đâu ngờ rằng chỉ vài giờ sau tôi đã phải khóc nó. Nó biết, đơn giản vì gần như nó đã trải qua, thấu suốt. Ðến lúc ấy, lúc nó chết, chỉ còn hơn bốn giờ nữa để nó đùa cợt và ngộ cho xong hết thảy mọi điều.
Mẹ tôi bảo :"Con mang mấy con ếch sang cho nhà bác giáo Quỳ nhắm rượu". Tôi bảo: "vâng". Nói xong đi tắm.
Mẹ tôi và chị Ngữ ra đồng giỡ lạc. Ðấy cũng là công việc của tôi buổi sáng.
Tôi xách xâu ếch qua nhà ông giáo Quỳ. Qua nhà dì Lưu thấy Quyên gọi: "Anh gì ơi". Tôi bảo: "Tôi là Nhâm. Cái Mị đâu rồi"?.
Quyên bảo :"Mị đến trường. Anh đi đâu cho tôi đi với".
Chúng tôi đến nhà ông giáo Quỳ.
Chuyện Ông GIáo Quỳ
Ông giáo Quỳ dạy cấp một, tính thương người, hay đọc sách từ nhỏ. Lớn lên, cha mẹ đi hỏi vợ cho, ông giáo Quỳ bảo: "Cô đừng lấy tôi rồi khổ một đời". Người kia bảo: "Khổ cũng lấy". Ông giáo Quỳ bảo: "Lấy tôi thì đừng sợ nghèo là một, đừng sợ nhục là hai, đừng ghen tuông là ba, phải trọng liêm sỉ là bốn". Người kia bảo: "Biết trọng liêm sỉ thì ba việc trước là thường". Hai vợ chồng lấy nhau ăn ở tâm đắc. Ông giáo Quỳ về sau bị đuổi việc vì dạy trẻ con không chịu dạy theo sách giáo khoa, cứ tục ngữ ca dao mà dạỵ Một lần đi chấm thi ở Hải Phòng, thấy cô gái giang hồ đang bụng mang dạ chửa không có nơi sinh nở thì đưa về làm vợ hai, vợ cả cũng chẳng nói gì, còn cấp tiền cho để làm nhà riêng. Biết vợ hai phong tình, vẫn hay đi lại với nhiều người, ông giáo Quỳ cũng mặc, chỉ bảo :"Cô ngủ với ai thì nhớ đòi tiền, không có tiền thì lấy thóc hay lấy lợn vịt thế nào chứ đừng ngủ không". Cả làng cười, ông giáo Quỳ cũng mặc. Ông giáo Quỳ hay uống rượu, rượu vào thơ ra, có nhiều bài nghe cũng được.
Ông giáo Quỳ ở nhà một mình, nằm võng đọc sách. Tôi và Quyên chào. Ông giáo Quỳ vội nhỏm dậy pha nước. Chúng tôi ngồi ở chõng tre dưới dàn thiên lý. Ông giáo hỏi Quyên: "Cô học đại học bên Mỹ thì lợi cho ai ?". Quyên bảo: "Lợi cho cháu, cho gia đình, cho đất nước". Ông giáo Quỳ cười: "Ðừng nghĩ đến lợi, nghĩ đến lợi nhọc mình".
Chúng tôi ngồi ăn khoai sọ chấm muối vừng. Ông giáo Quỳ cầm quyển sách nhét xuống chiếu. Quyên bảo: "Bác làm thế nát mất sách còn gì". Ông giáo Quỳ cười: "Nát thì thôi. Ðọc sách để có tri thức. Có tri thức để sống đời mình có nghĩa".
Nắng lọc qua dàn hoa rải những vệt nắng trên đất. Cả ông giáo Quỳ, cả Quyên, cả tôi đều cùng im lặng. Tôi muốn ra đồng. Quyên bảo: "Tôi về lần này, rất muốn có một ấn tượng đúng về đồng quê. Anh đi đâu cho tôi đi với". Tôi lưỡng lự. Ông giáo Quỳ cười: "Cô ấy là đàn bà, sao lại chối từ đàn bà được?".
Chúng tôi chào ông Quỳ rồi ra đồng. Quyên bảo: "Cánh đồng rộng quá. Anh có biết cánh đồng bắt đầu từ đâu không?".
Cánh đồng bắt đầu từ nơi rất sâu trong lòng tôi
Trong máu thịt tôi đã có cánh đồng
Ðứng bên ni đồng mênh mông bát ngát
Ðứng bên tê đồng bát ngát mênh mông.
Tôi làm sao quên được nơi mẹ sinh tôi
Mẹ đã buộc cuống rốn tôi bằng sợi chỉ
Tắm gội cho tôi bằng nước ao đầm trước
Tôi biết khóc cũng vô ích vì tất cả phải chờ đợi
Phải chờ đợ từ tháng giêng đến tháng chạp
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà
Tôi đi qua rất nhiều bờ ngang, bờ dọc lầm lạc
Ði qua rất nhiều gian khó, thô tục
Tôi phải gieo trồng, gặt hái trên cánh đồng này
Phải thuộc tên nhiều loại sâu bọ
Còn cánh đồng thì khi mưa, khi nắng
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu
Rồi ngày kia
( Cái ngày xung tháng hạn )
Có một người đàn bà đến làm cho tôi đau
Nàng dạy tôi thói bạc tình
Bằng cách phản bội tôi như có thể phản bội một người thường
Tôi lẳng lặng chôn nỗi căm ghét cuối cánh đồng.
Trong mạch đất hiểm có hình lưỡi kiếm
Những bông hoa mơ ước héo trên tay
Công việc trở nên nặng nề hơn trước
Tôi bán những sản vật làm ra với giá rẻ như bèo
Ðã có những mùa thu hoạch lớn
Tôi cũng đã phá sản đôi lần
Khi chiều xuống, hoàng hôn tĩnh lặng
Tôi không kịp xem những vết sẹo trên người
Chỉ biết rằng tôi đã mang thương tích
Ðêm
Những vì sao thắp nến trên bầu trời
Tôi đắp tấm vải liệm sực mùi đồng nội lên người
Khi ấy, bạn ơi, bạn trẻ ơi
Bạn hiểu cho tôi
Tôi đã gắng làm cho cánh đồng phì nhiêu
Tôi dẫn Quyên đi qua cánh đồng màụ Quyên hỏi: "Giá nông phẩm quê anh năm nay tăng giảm thế nào?". Tôi bảo: "Tăng 0,4%". Quyên bảo: "Chết thật! Thế mà hàng công nghiệp tăng 2,2% . Thế giá phân bón thế nào?". Tôi bảo: "Ðạm tăng 1,6% , lân tăng 1,4%". Quyên hỏi: "Quê anh có dùng điện không?". Tôi bảo: "Không". Quyên bảo: "Giá điện tăng 2,2%".
Khoảng 10 giờ sáng là khoảng thời gian đông người trên đồng, có nhiều phụ nữ, trẻ em. Họ là nguồn lao động chính. Ðàn ông quê tôi phiêu lưu, lại nhiều ảo tưởng, họ ôm ấp ước mơ làm giàu nên hay bỏ ra ngoài thành phố tìm việc, đi buôn bán. Cũng có người lặn lội vào tận miền trong đào vàng, đào hồng ngọc. Giàu có chẳng thấy đâu nhưng khi về làng, tính tình họ đổi khác, họ trở nên những con thú dữ độc. Chú Phụng là người như vậy.
Chuyện Chú Phụng
Nguyễn Viết Phụng, nhà nghèo, học hết cấp hai thì thôi học. Phụng làm nhiều nghề: thợ cày, thợ xây, thợ mộc, đánh xe bò... Năm 20 tuổi Phụng đi bộ đội. Ba năm sau về làng lấy vợ. Vợ hơn Phụng bốn tuổi, đẻ liền ba năm bốn đứa con gái (lần thứ ba vợ đẻ sinh đôi). Phụng quyết chí làm giàu, bán đồ đạc ở nhà lấy hai đồng cân vàng giắt lưng vào miền trong đào vàng. Bặt đi hơn năm chẳng có tin tức gì, một hôm lù lù trở về, người ngợm gầy như xác ve, mặt phù như cái lệnh. Phụng nằm liệt giường, vợ tần tảo thuốc thang nửa năm trời, nhà nghèo lại nghèo thêm. Sau trận ốm, Phụng tính nết đổi khác, có lần chém người bị thương, dân làng ai cũng sợ.
Cũng có khi Phụng bỗng khóc hu hu, cứ chắp tay lạy vợ lạy con. Về sau may bố mẹ vợ chuyển ra thành phố với người con trai ở nước ngoài về, cho không ngôi nhà với ba sào vườn nên đời thay đổi. Vợ Phụng là người tháo vát, chăn nuôi giỏi, lại có nghề làm đậu phụ. Bốn đứa con gái đứa nào cũng chịu khó giúp mễ Phụng ở nhà, dọn cho mình một mình một buồng, cấm vợ con vào. Thỉnh thoảng, Phụng vẫn đi lại với thiếm Nhung và mấy bà góa nạ dòng. Vợ con Phụng hỏi: "Sao anh cứ xa lánh chúng tôi ?". Phụng bảo: "Báu gì mà ở gần tao. Thịt của tao rất độc. Cắn vào tao là cắn phải bả chó. Tao thương mẹ con mày, muốn cho mẹ con mày trong sạch đấy thôi".
Tôi và Quyên đi qua đấu đất giữa đồng. Ở dưới đấu đất, những bụi thầu dầu, rau dền gai mọc đầy. Có cả những cây ngô đồng hoa đỏ lá xanh. Quyên hỏi: "Sao gọi là đấu đất ?". Tôi bảo: "Ngày xưa, vua Ba Vành đào nơi này để đong quân như ta đong thóc". Quyên hỏi: "Khoảng bao nhiêu người ?". Tôi bảo: "Hai mươi người một ngũ, hai trăm người một cơ". Tôi và Quyên đến khoảnh ruộng mẹ tôi và chị Ngữ đang dỡ lạc. Nước xâm xấp luống, nhấc cây lạc lên là bật gốc. Quyên sắn quần, cũng lội xuống bứt lạc. Quyên bảo :"Nhàn thật". Mẹ tôi bảo: "Cô ơi, đấy là cô mới chỉ cưỡi ngựa xem hoa đấy thôi. Cô thử tính xem từ khi hạt lạc gieo xuống luống này, đến khi kết hạt mẹ con tôi vất vả lấm láp thế nào!". Chị Ngữ ví von: "Ai ơi bưng bát cơm đầy. Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần".
Tôi đạp phải ổ dế. Lấy cuốc bới ra, hàng nghìn con dế đất béo núc ních bò nhung nhúc. Mẹ tôi, chị Ngữ bỏ dỡ lạc bắt dế. Mẹ tôi xuýt xoa: "Ôi chao, phúc đức đầy nhà rồi các con ơi!". Chị Ngữ mừng:"Cái nhà ta rồi giàu nhất làng!".
Khoảng gần trưa, thấy ở đường Năm có đám đông kêu la khóc lóc đang chạy. Mẹ tôi tự dưng ngã chúi xuống ruộng, thất thanh gọi tôi: "Nhâm ơi Nhâm". Tôi và chị Ngữ sợ hãi, tưởng mẹ tôi trúng gió. Mẹ tôi mặt tái đi, tay giơ trước mặt như sờ nắn ai. Mẹ tôi gọi: "Nhâm ơi Nhâm. Sao em Minh con máu me đầy người thế này?". Chị Ngữ lay lay mẹ tôi:"U ơi u, sao u nói gở thế ?".
Có mấy người từ đám đông trên đường Năm bỗng chạy tách ra, băng qua đồng. Có ai gào to thảm thiết: "Bà Hùng ơi ( Hùng là tên bố tôi ) mau ra mà nhận xác con đây này". Anh Ngọc tóc dựng ngược, cái anh nhà thơ mà tôi đã gặp ở ga chiều qua, chạy ở phía trước. Anh nói không ra hơi, tôi nghe loáng thoáng, chỉ biết rằng cái Minh em tôi và cái Mị con dì Lưu đèo nhau đi học về, qua ngã ba thì bị chiếc ô tô chở cột điện cán chết.
Mẹ tôi lăn lộn giữa ruộng lạc đang dỡ nham nhỡ. Những con dế đất bay nhanh, bay một quãng lại bò, lại rúc đầu xuống bùn. Chị Ngữ đứng lặng, mắt ngơ ngẩn thất thần nhìn về dãy núi xa phía vòng cung Ðo6ng Sơn, tựa như không hiểu sao bỗng dưng trời cao phũ phàng đến thế.
Anh Ngọc, tôi và Quyên chạy ra đường. Nước mắt tôi giàn giụa. Cái Minh mới 13 tuổi. Cái Mị mới 13 tuổi. Tôi còn chưa kịp làm cho cái Mị cái lồng lấy ổi. Còn cái Minh em tôi, con bé rất thảo, nó suốt đời mặc quần áo vá, nó bao giờ cũng dành cho tôi những quà ngon nhất.
Chiếc xe tải chở ba cây cột điện đổ nghiêng ở bên vệ đường. Người ta dùng kích để nâng bánh xe, tìm cách kéo xác cái Minh và cái Mị rạ Cái Minh nằm nghiêng, cái Mị nằm sấp, đè lên nhau. Chiếc xe đạp rúm ró bên cạnh.
Tôi đưa tay lên miệng để bịt âm thanh thổn thức trong cổ cứ thấy bật ra. Tôi thương các em tôi quá. Rất đông những con ruồi bu quanh hai lỗ mũi cái Minh, cái Mị. Anh Ngọc nhà thơ không biết lấy ở đâu ra nắm hương cứ huơ huơ trước mặt hai đứa, khói hương quẩn lại một chỗ không bay lên được. Tôi sẽ không kể gì về cái chết của cái Minh, cái Mị nữa. Chiều hôm ấy phải làm đám ma cho hai em tôi. Cũng giống như mọi đám ma ở làng, ở đấy có rất nhiều nước mắt, nhiều lời than vãn. Tôi và một thanh niên trong làng cáng dì Lưu ra tận ngoài đồng rồi lại cáng về. Quyên cũng đi theọ Anh Ngọc có làm bài thơ về sự việc này. Tôi không hiểu sao anh làm thơ được ở trong hoàn cảnh nhẫn tâm như thế.
BÀI THƠ "ÐÁM MA TRINH NỮ TRÊN ÐỒNG"
CỦA NHÀ THƠ BÙI VĂN NGỌC
Tôi đi đưa đám ma trinh nữ trên đồng
Cái chết trắng, cái chết trắng xoá
Những con bướm trắng, những bông hoa trắng
Những tâm hồn trắng, những cuộc đời trắng.
Ơi hời, tôi đưa đám ma trinh nữ trên đồng
Tôi đào huyệt, dài một mét tám, ngang bảy mươi phân
Tôi đào huyệt, sâu một mét rưỡi
Ơi hời, tôi chôn vào đây tinh thần sơ nguyên
Ơi hời, này là vật hiến tế cho đất đai
Trinh nữ vẹn tuyền, cái chết trắng xóa
Những con bướm trắng, những bông hoa trắng
Những tâm hồn trắng, những cuộc đời trắng
Ơi hời, tôi lót vào ngực bài thơ trắng tinh
Bẻ một cành xanh mà che mắt nhìn
Gió phơ phất, hồn bay phơ phất
Hồn bay lên, trên cánh đồng người
Tôi đi đưa đám ma trinh nữ trên đồng
Trong ngày như thế, trong một ngày dưng
Trong ngày như thế, trong một ngày thường
Ơi hời, tôi đi lẫn trong đám đông, trong số đông, trong
lòng người, trong nỗi đau thương, tronh thê lương...
Chiều hôm sau tôi đưa Quyên ra ga. Dì Lưu nói mãi nhưng Quyên cứ nằng nặc đòi về. Chúng tôi đi theo con đường đất men bên rìa làng qua đầm sen rồi dọc bờ mương ngược về huyện lỵ. Qua đầm sen chúng tôi ngồi nghĩ. Quyên bảo: "Tôi ở đây ba ngày mà sao dài quá".
Ga chiều huyện lỵ vắng vẻ. Vẫn chỉ có khoảng hơn chục người đứng ở sân ga đợi tàu. Vẳng lại tiếng cát-xét nhà nào đang mở. Tàu vào gạ Hành khách lần lượt lên tàu. Mấy thầy cô giáo cấp ba trường huyện. Bộ đội. Mấy người buôn chuyến. Một thanh niên đeo kính trắng, tay xách va li. Hai cặp vợ chồng giáo Quyên.
Quyên bảo: "Anh gì ơi! Tôi đi nhé! Cám ơn anh đã đi tiễn tôi".
Tôi đứng ở sân ga rất lâu. Tàu đi khuất. Tôi linh cảm thấy không bao giờ còn gặp Quyên nữa.
Tôi qua cửa soát vé về làng. Nhìn phía trước chỉ thấy một vệt xanh nhô trên đồng vàng, xa mờ là vòng cung Ðông Sơn. Ở đấy tôi có rất nhiều thương nhớ.
Ngày mai trời nắng hay mưa? Thực ra bây giờ với tôi, trời nắng hay mưa thảy đều vô nghĩa. Tôi là Nhâm. Ngày mai tôi 17 tuổi. Có phải đấy là tuổi đẹp nhất đời người ta không?
Nguyễn Huy Thiệp