vhnt, số 121
27 December 1995
Trong số này:
- Giới thiệu người viết: Nguyễn Phước Nguyên
T h ơ :
1 - Lục bát cho tình yêu......................Nguyễn Phước Nguyên
2 - Vốc đất bồi.......................................Phan Lê Dũng
3 - Dòng sông lạ ...................................Cỏ Nhớ / Lộc Quy
4 - Quà cho quê hương.............................Trương Nguyễn Thi Thanh
5 - Hoài cảm...........................................Đặng Khánh Vân
6 - Mùa Giáng Sinh.......................................Thùy Trang Đào
T r u y ệ n N g ắ n / S á n g T á c :
7 - Ðoản khúc 4 ....................................Cỏ Nhớ / Lộc Quy
8 - Florence (p1/2).......................................Phạm Thị Ngọc
G i ớ i T h i ệ u N g ư ờ i V i ế t :
Nguyễn Phước Nguyên
Tên & bút hiệu: Nguyễn Phước Nguyên
Mình chỉ có những bài thơ qua một quãng đời sống-với-suy-nghiệm và suy-nghiệm-để-sống.
Ba mình là lính Cộng Hòa, nên nhà cứ thuyên chuyển hoài. Và từ bé mình đã biết ghi nhận những hình ảnh của quê hương trong khói lửa, những mất mát, những chết sống trong nháy mắt...
Từ ngày rời VN năm 75, đi làm phụ gia đình từ lúc 12 tuổi (phát báo, rửa chén, v.v...), đi học, ra trường đi làm kỹ sư. Năm 87 bỏ job, đi làm việc thiện nguyện ở trại cấm Chimawan (Hong Kong). Năm 87, về lại Hoa Kỳ, đổi nghề làm Human Resources vì không thích nghề kỷ sư nữa. Hiện ở Houston.
Trong thời gian ở Chimawan, chứng kiến những chuyện đau lòng - cho dân tộc mình, cho thân phận thằng VN của mình. Những đầy đọa, ức hiếp, bạc đãi của dân bản xứ lên dân Việt mình. Những dối trá, gian manh giữa những người Việt trong trại tị nạn với nhau.
Nhưng xen lẫn ở đâu đó là những nụ hoa tình người. Không điều kiện. Không biên giới. Không hậu ý.
Và thơ bắt nguồn từ đó.
Chúng ta ai ai cũng có những chủ ý, lập trường về mọi vấn đề - Amerasian, bang giao VN, gia đình, tình yêu, sứ mạng tuổi trẻ, v.v.... Và khi nói cho nhau nghe, thì thấy dường như có chút gì qủa quyết, cứng rắn.
Cho nên ở những cơ hội hay tao ngộ tình cờ có được, chỉ muốn đem những gì mình nhận thức được để rêu rao một thông điệp hiền hòa, khiêm nhường - Mở rộng lòng ra để yêu thương mình, yêu thương đời, yêu thương người. Là đủ.
Trái tim là động lực thúc đẩỵ Khối óc là phương tiện thực hành.
Tình thân,
npn
Lục Bát Cho Tình Yêu - 1
gần
biết không, ta muốn yêu em
như sương yêu cọng cỏ mềm, ngoài sân
nhưng thôi, em ạ, chỉ cần
yêu em, như nắng. thật gần. mà xa.
xa
nhớ em, gang tấc còn xa
thương em, mặt đất bao la cũng gần
riêng
lòng ta vỡ vạn mảnh rồi
dành riêng em một mảnh đời, rất xưa
quanh ta trời vẫn là mưa
dành riêng em khoảng nắng thưa lọt vào
hồn ta có những cổng rào
dành riêng em một lối vào mà thôi
quanh ta chen chúc bao người
dành riêng em một chỗ ngồi, trong tim
nhớ
trong tim, giòng máu điên cuồng
ai về dẫm nát nỗi buồn nghiệt oan
tình ơi, xin hãy ngủ ngoan
đau thương tháp cánh chim hoàng oanh, bay
trăm năm đỗ cánh về đây
nầy thân ta, một nhánh cây muộn phiền
bụi trần vương suối tóc tiên
yêu em, như bụi vương miền châu thân
đêm đôi tay nhớ đôi chân
vòng tay bó gối, tần ngần nhớ ai
thiên tài
yêu em. ta. một thiên tài.
con tim mệnh yểu, một hài hình chôn
đom đóm
yêu em, có lẽ tiền cănZ
ta là đom đóm. yêu trăng. lập lòe.
nên ta có những đêm hè
ngỡ con đom đóm lập lòe là trăng.
mặc sầu
em đi, khép một thiên đường
ta về đốt nén trầm hương mặc sầu
quyện vào hồn, để mai sau
tìm hơi hướng thuở ban đầu mà thương
mai sau
trong lòng, mình đã có nhau
sá chi em, chuyện mai sau cả đời
trong tim, mình đã có đời
sá chi em, chuyện cả đời mai sau
những bước chân hoang
ngày thơ ấu, trái tim hoang
yêu em, chân bước hai hàng. ngoài. trong.
tình yêu với những đường cong
đời ta. đường thẳng. long đong. chạy hoài.
theo em. bước ngắn. bước dài.
bước trên đá nhọn. cho hài lòng nhau.
thủy chung
làm sao em hiểu được người
ở từng tiếng khóc, tiếng cười dối gian
em nhìn ta quấn khăn tang
yêu em từ thuở hồng hoang bắt đầu
sông em chảy một nhánh sầu
đời ta bắt một nhịp cầu cho em
thủy chung. hai tiếng. ta đem
thả theo giòng nước, thử, xem có về?
nhỡ mai em lỗi hẹn thề
qua cầu, em có nhớ về dòng sông
ru mình trong mưa
như con cuốn chiếu cuộn mình
cắn răng gọi mải tên mình: Mình ơi !...
lạy trời dăm hạt mưa rơi
vừa ta mát chỗ nằm phơi cuộc tình
như con cuốn chiếu cuộn mình
em nằm yên ngủ trên tình yêu ta
Nguyễn Phước Nguyên
Vốc Đất Bồi
Cho em một vốc đất bồi
Mưa đong nắng gọt rã đời phù sa.
Chuyển em cung bậc lời ca,
Từng cơn gió núi vọng xa hão huyền.
Chiều ra góc núi bên triền
Lở loang đá phiến từng phiên dãi dầu.
Mưa, mưa mãi chẳng về đâu
Chỉ làm lở đá khúc đầu vụng hoang.
Mưa, mưa mãi chẳng hề tan,
Chỉ làm mất hết những tàn lụi xưa
Cho em một vốc đất bồi
Cuộc đời chuyển hóa em bôi mặt mình,
Ngày xưa câu chuyện Trang Sinh
Ngày nay đất lở thấy hình tượng em
Phan Lê Dũng
Dòng Sông Lạ
tôi, dòng sông lạ về đời
tìm em, em giữa biển người quạnh hiu
buồn vui như mạch thủy triều
đời lăn giọt nước mắt chiều tiếc nhau
một lần, mỗi một lần đau
con sông lạ chảy xanh xao tìm người
ơi em, lạch nhỏ mù khơi
chừng nao về trọ sông tôi bão bùng
Cỏ Nhớ
Quà Cho Quê Hương
Anh về thăm lại quê hương
quà cho em, muốn gì không, khi về?
Em cười giọt lệ mặn, tê
sao không hỏi: muốn tặng quê mình gì?
Tình thương gói gém khi đi
mười năm ly loạn, vẫn, thì em mang
tim còn những mớ hành trang
em chia anh nửa, anh trải trang khi về
Trương-Nguyễn Thi Thanh
Hoài Cảm
Anh có hiểu vì sao Nó lại khóc?
Chắc Nó buồn, đau khổ phải không anh?
Nước Nó nghèo bởi khóc lửa chiến tranh
Ðời Nó khổ, không cơm no áo ấm
Nó lớn lên thiếu vòng tay đằm thắm
Người thân thương lần lượt bỏ Nó đi
Những ngày qua vất vã mãi kiên trì
Không than oán, sao nghe sầu vời vợi
Em và Nó sinh ra cùng thế hệ
Một cuộc đời, sao hai ngã khác nhau?
Ðường Nó đến đẫm nước mắt thương đau
Lối Nó về khăn trắng phủ êm đềm
Nó trao đời trọn tâm linh dịu êm
Gởi dương gian những giọt lệ triền miên
Cho thế nhân ray rức ôm nỗi niềm
Muốn chia sẻ nhưng xa tầm tay với
Và một chiều bên kia bờ ranh giới
Em âm thầm lặng lẽ một mình riêng
Nhìn trời cao khấn vái đức thiên liêng
Xin cho Nó những chuỗi ngày tươi sáng
DKV
Mùa Giáng Sinh
Giáng Sinh, thánh thót điệu đàn
Mưa rơi hoà tiếng chuông ngân bên đồi
Dạo hoài khúc nhạc không lời
Tháp chuông, nhạc tấu, điệu Valse êm đềm
Noel, lấp loáng ánh đèn
Người người chờ đợi một đêm đông về
Quỳ bên máng cỏ, họ nghe
Tiếng kinh cầu nguyện, ma soeur thật hiền
Em, người ngoại đạo đi rong
Trái tim nho nhỏ, giấu trong áo dày
Chợt nghe nhung nhớ thật đầy
Ước gì anh đến, đan tay trong chiều
Giáo đường, có kẻ đang yêu
Chắp tay qùy nguyện, chiều chiều bên nhau
Chuông nhà thờ, đổ thật mau
"Bình yên xuống thế...", có nhau trong đời
Giáng Sinh, buông khúc tình ca
Lung linh sao sáng, điệu Valse bên đồi...
Bé Lì
Dec' 95
Merry Christmas And Happy New Year
&
Joyeux Noel et Bonne Nouvelle Annee
Đoản Khúc 4
Một ngày cuối năm của tôi ở hãng thật vô tích sự Phá computer vẽ cây thông, lại ra một cái bông hồng. Muốn viết một bài thơ thất ngôn chúc bạn, lại ra mấy câu thơ tự do vô nghĩa. Ðứng tần ngần ở máy fax. Có nên fax không. Không. Tôi về office lôi trong tập ra mớ thiệp đọc lại. Năm nào cũng thế, cái thiệp đầu tiên tôi nhận được luôn luôn từ Sài gòn của Hạnh. Thế mà suốt mấy năm trung học ở Gò Công, Mỹ Tho, Sài Gòn; đi đâu cũng gặp nhau mà lại không nhìn nhau. Chừng tôi phải đi thật, kiếm Hạnh từ giã khóc quá là khóc. Chuyện con nít buồn cười thế đấy. Tội nghiệp bạn tôi, đã mấy cái thiệp Noel rồi, vết thương tình cảm vẫn mưng mủ. Năm ngoái gặp nhau ở Sài gòn, tôi bảo " cứ coi như once in a life time, you fell in love with Mr. Wrong". Khổ cái, Mr. Wrong của Hạnh cũng lại là bạn thân của tôi. Anh đang ở Dallas, bình yên, hạnh phúc. Bốn tháng trước tôi xuống chơi, khen con gái anh có cặp mắt đẹp quá. Con bé 3 tuổi biết hỏi "đẹp giống ai cô ?" Suýt tí tôi nói "giống cô Hạnh con", mà trời ơi suýt tí nữa tôi chịu đựng không nỗi phải "quạt" anh một trận. Mắt Hạnh to tròn, thăm thẳm màu bình yên. Xưa là thế. Bây giờ vẫn thế, nhưng bạn tôi mãi mãi bình yên trong thế giới người mù. Tai ách ngang đời, Hạnh bệnh, mất giác thị, dần dần loà hẳn. Ðám bạn bên nhà tức " nó khóc vì tình mãi". Hạnh bắt tôi giấu bố con bé; lý do "cho tao còn chút tự ái để sống tiếp". Tôi rất muốn nói cho anh biết, nhưng lại sợ mình đạp đỗ hạnh phúc của người ta. Huống chi đã không còn cách cứu vãn.
Chính vì tôi nói không ra, nên tôi thích một truyện ngắn của bác sĩ Trần Long Hồ. Ông ta viết tựa truyện "nói với ai bây giờ", và kết thúc câu chuyện " ngày xưa tôi yêu em, trời ơi cho tôi nói, nhưng nói với ai bây giờ".
Tôi chẳng yêu ai mà không nói được, nhưng trời ơi cho tôi nói nhưng nói với ai bây giờ.
Cỏ Nhớ
Florence
Ngày xưa, trong một lúc lẫn lộn giận yêu, chàng đã phê bình tôi một câu như vầy: em sao con gái gì mà khó bảo. Bây giờ, hiện giờ, khi lại một lần nữa chỉ còn một mình trên quãng đường đời thênh thang, tôi có nhớ đến chàng, và tôi thấy điều chàng đã nhận xét ngaỳ xưa chưa thấm vào đâu so với hiện tại. Ngày xưa tôi đã giải thích cho chàng hiểu tại sao tôi cứng đầu, giải thích một câu về " tiểu sử ", về " thuở ấu thời " mà tôi nghĩ giá ngày xưa tôi đừng nói gì thì hơn. Nhưng cũng chẳng saọ Chàng hiểu được gì, tôi hiểu được gì, bây giờ cũng chẳng có gì khác biệt đối với tôi.
Ngày xưa, vào cái thời mà chàng có thể gắt " sao em ngày càng cứng đầu " đó, và vào khi tôi còn có thể giải thích cho chàng, tôi nói rằng tôi lớn lên thiếu thốn sự đùm bọc của người đàn ông nên ra như vậy. Sau 75 tôi không có cha, và lại mất đi người anh khi anh tôi đổ xuống như ột loài cổ thụ hoang bị đốn ngã, mở ra một mảnh trời, hé ra một chút mặt trời cho các loài sâu bọ cây dai khác từ trước tới giờ vẫn sống dưới bóng cây. Ngày ấy, chàng không thích cách giải thích của tôi. Nhưng bây giờ, nhớ lại cách giải thích ấy chỉ làm cho tôi thấy buồn cười, và nhớ nét mặt đăm chiêu của chàng lúc ấy càng làm tôi thấy buồn cười hơn. Tôi, con nít con nôi, giải thích tâm lý học. Chị tôi từ thuở bé cho đến thuở lớn khôn có bố tôi che chở, luôn có bố bênh vực cho cả những lần tử chiến với trẻ con họ hàng láng giềng. Vậy mà lớn lên chị vẫn không trở thành nữ nhi nhu nhược. Nhưng, chị tôi hình như sanh ra đã là một nghịch lý ( chứ không chỉ là một ngoại lệ ), một antihesis ( nói theo tiếng triết học cho oai ). Và còn mẹ tôi nữa. Mẹ tôi không thiếu sự hiện diện của người đàn ông trong đời bà, lập gia-đình khi còn rất trẻ, và chỉ xa ông ngoại tôi khi bà cùng chồng đi Nam. Nhưng về mẹ tôi, tôi nghĩ đó là một đề tài tôi chỉ nên nói thật ít.
Tôi nhớ tôi có nói với chàng thuở ấu thời làm tôi cứng đầu, nhưng cũng làm tôi cần có một người đàn ông, có lẽ cần hơn mọi người đàn bà bình thường khác. Ðiều này tôi không bao giờ phủ nhận hay đem ra để khôi hài. Lúc nói với chàng, tôi có thu người tôi lại trong vòng ấm thoát ra từ người chàng. Nhưng bây giờ, tôi biết rõ hơn, tôi cảm thấy rõ hơn, sự thiếu thốn của tôi. Tôi biết, dẫu có chàng trong căn phòng này đi nữa, dẫu có chàng bên trong vòng ấm của tôi đi nữa, tôi vẫn thấy chưa đầy đủ. Sự hiện diện không đầy đủ. Sự hiện diện của chàng là sự hiện diện không đầy đủ. Dù sao, tôi cũng mừng vì ngày xưa tôi đã không nói với chàng điều đó.
Anh tôi, ngày xưa đứng trên mặt đất vững vàng như một loài cổ thụ, bây giờ nằm dưới lòng mặt đất, chẳng còn là gì. Ðã mười mấy năm rồi, hình ảnh về cái chết của anh trở về trong trí nhớ tôi cũng chỉ phảng phất mơ hồ thôi. Ngày giỗ, tôi đi thăm mộ, đem theo vài chậu hoa tươi và hoa giả. Nhớ về anh, tôi có một ý nghĩ: anh già quá. Già trong mọi chọn lựa, từ áo quần đến bạn bè đến cả lời ăn tiếng nói. Anh già nhưng lại quá trẻ trong sự lựa chọn bạn gái. Anh mê một đứa con gái chỉ hơn tôi có non một tuổi. Thu Sương với tôi ngày ấy chưa bao giờ nói chuyện với nhau. Thu Sương tiểu thư mấy ai được gặp, tôi có bao giờ được dạy thế nào là tiểu thự Thu Sương... học dốt, tôi đỡ dốt hơn. Thu Sương ra đường chỉ đi chơi với em gái, tôi có cả một bầy bạn gái\/
Bây giờ, có lẽ tôi chẳng còn bạn nào nữa. (Mười mấy năm qua rồi, đến bây giờ tôi mới bắt được Thu Sương của mười mấy năm trước.) Thu Sương bây giờ nghe đâu cũng đã hai con, và vừa mới ly dị chồng. Anh tôi còn sống chắc chẳng đi đến chuyện gì với Thu Sương, nhưng chắc anh cũng chẳng vĩ-đại như tôi đang vĩ-đại hóa anh bây gi Sống bấy nhiêu cũng đủ.
Tôi quay lại khi mẹ tôi bảo sửa lại chậu hoa bên cạnh bia đá. Tôi làm theo lời bà, rồi hai mẹ con đọc đoạn kinh ngắn trước khi rời nghĩa trang. Có lúc tôi nhìn bà, và nghĩ hình như sự phiền khổ không còn nữa trên nét mặt bà, trên hơi thở bà. Mười mấy năm rồi, anh bây giờ sướng hơn mẹ. Nhìn bà, tôi muốn để ý, tìm một nét lạ nào đó qua khuôn mặt. Lâu nay bà hay than tim đau, đau nhất là khi tôi cãi, cho nên đừng cãi bà nữa. Tôi cho đó là một cách bà dọa tôi, làm áp lực bắt tôi phải lấy chồng. Nhưng tôi vẫn để ý một nét lạ nào đó, nếu cô " Bây giờ, mình đi thăm bà Florence. Tiện có con về Mẹ mới đi thăm người ta được " mẹ tôi nói.
Florence Baudoin. Tên Florence Baudoin lướt thật nhanh trong đầu tôi, tìm ra một khuôn mặt. Hình ảnh Florence Baudoin được gợi lên, làm lòng tôi chợt chùng xuống.
Nhưng trước khi lên xe, đầu óc tôi chưa bỏ hẳn mộ anh. Tôi nhớ, những buổi trưa ngày xưa còn bé, tôi hay đến bên anh những lúc anh ngủ, vạch mí mắt anh ra để xem lúc anh ngủ rồi thì mắt anh đi dâu, có nhìn thấy tôi không. Tôi nghịch ngợm vạch mí mắt anh bằng bàn tay nhỏ, vạch rồi lại buông, buông rồi lại vạch. Mắt anh vẫn còn nguyên ở đó,không đi đâu cả. Mắt hơi lồi, còn đủ cả lòng trắng lòng đen. Nhưng anh không nhìn
thấy tôị Tôi đã nghĩ rằng anh chỉ giả vờ ngủ, và giả vờ không nhìn thấy tôị Chỉ giả vờ thôi.
Chàng có đi với tôi một lần đến thăm bà Florence Baudoin. Chúng tôi cứ gõ cửa mãi mới được bà ta mở cửa cho vào. Chàng lúng túng khi bước vào một thế giới hiu hắt của một người đàn bà bảy mươi không chồng. Tôi thì không lạ lùng gì cả, vì đã biết trước. Tôi không có mục đích đem chàng đến để khoe với bà. Tôi đến vì muốn chào bà trước khi tôi đi học xa. Dù có chàng, nhưng tiện đường, thành thử tôi ghé vào từ giã một người đã đối xử với gia-đình tôi rất tốt.
Tôi biết chàng lúng túng khi bước vào thế giới ngăn nắp không một hạt bụi, và cũng là một thế giới lạnh lẽo thiếu ánh sáng của một bà già độc thân. Trong thế giới đó, sự tối tăm lờ mờ lúc nào cũng đòi người ta phải điều chỉnh lại con ngươi khi bước vào, sự sạch trơn từ sàn nhà cho đến vách tường đến cả mọi góc cạnh làm người ta không dám đi sâu vào quá vài bước tù ngưỡng cửa. Sàn gỗ bóng loáng làm chàng lúng túng cởi giầy. Bà Florence bảo cậu không phải cởi giầy. Nhưng khi chúng tôi đã bước vào trong, và khi tôi ngồi nói chuyện còn chàng thì đứng ngắm tranh trên tường, có lúc chàng toan rút bao thuốc từ trong túi áo thì Florence đã vội nói cậu đừng hút thuốc ở đây. Chàng đưa mắt nhìn tôi, và tôi cười trong mắt để chàng biết rằng tôi hiểu chàng đang nghĩ gì. Florence quay qua tôi và hỏi tôi sắp đi có cần thêm tiền không. Tôi trả lời thưa không, tôi đến chào bà vì tôi coi bà như mễ Bà bảo tù bé đến lớn tôi à đứa con gái ngoan, bà muốn tôi luôn ngoan như vậy.
Mắt Florence sau cặp kính nhà giáo nhìn thẳng tôi. Mắt bà xanh, xanh như đôi mắt của loài mèo, xanh biếc tôi thấy cả con ngươi chính giữa. Màu tóc thì thay đổi theo thời gian, nhưng màu mắt thì không thay đổi. Mắt thì đục mờ đi theo thời gian nhưng mắt Florence thì vẫn còn tinh sáng. Florence ngồi đối diện tôi, ngồi thẳng lưng trên chiếc ghế bành bà thường ngồi, chân này chéo qua chân kia dưới làn áo wardrobẹ Chân bà xỏ đôi giầy đi ở trong nhà, loại giầy bông thật nhe. Nhưng đôi cổ chân bà, tôi thấy, sưng vù như bị phù thủng, đôi chân sưng trắng bệt, đây đó lốm đốm những mảng da nám màu nâu nhạt. Tôi nghĩ, hình thù của đôi chân người ta cũng là do cuộc đời, số mệnh uốn nắn. Hình thù đôi chân, đôi bàn chân,tùy thuộc vào loại giầy dép người ta mang, vào mặt đất người ta đứng, vào lộ trình người ta phải đi qua. Ðôi chân mẹ tôi lòi mắt cá hai bên, có những lằn gân từ đó chạy lần lên ống quyển. Bàn chân mẹ tôi bị chai ở gót, lâu lâu đau nhói bà bảo tôi cắt hộ bà lớp da khô chai dầy cộm. Có lần, khi tôi hỏi về một vết thẹo ở bắp chân, mẹ tôi bảo ngày còn bé bà bị chó nhà ông ngoại cắn bậy. Tôi nhìn bà không hiểu. Bà giải thích, chó nhà ông và bà trẻ.
Khi chúng tôi đứng lên cáo từ Florence thì ngày đã ngả về chiều. Ðèn đường đã tự động bật sáng dù trời chưa đậm màu. Tôi ngỏ ý muốn xem khu vườn của Florence thì bà nói cứ tự nhiên nhưng còn bà thì ở lại trong nhà vì bà không hay ra ngoài vào giờ đó. Khi cánh cửa lưới vòng ngoài được đóng lại, tôi chỉ còn thấy lờ mờ vạt áo Florence di động loáng thoáng ở bên trong, và rồi cũng biến mất khi bà đóng nốt cánh cửa gỗ. Chàng hỏi tôi còn muốn coi vườn nữa làm gì. Thật ra, tôi muốn nhìn lại căn nhà bên cạnh, nơi gia-đình tôi đã ở được năm năm đầu khi mới đến.
"Ở lại với em một lát nữa thôi," giọng tôi thấp,"phim chưa đến xuất mà."
Căn nhà bên cạnh, căn nhà gỗ sơn vàng với rất nhiều cửa sổ, là nơi đã đòi hỏi ở chúng tôi tất cả sức chịu đựng của con người. Ðó là nơi đã chất chứa tất cả tiếng thở dài não nề nhất khi một gia đình liên tiếp trải qua những phân ly, tang thương, lỡ làng. Tôi có kể chàng nghe tuổi thơ của tôi ở căn nhà đó. Tôi đã nói cho chàng nghe những gì tôi ao ước cho tương lai, những ao ước nảy sinh từ tuổi thơ tôi. Bình thường thôi, phải không anh. Tôi đã hỏi, nhưng chàng không trả lời. Cũng chẳng có gì cần thiết.
Căn nhà bên cạnh có rất nhiều cửa sổ, những cửa sổ viền nâu trên vách nhà vàng. Căn nhà bên cạnh có rất nhiều cây, những cây cao thấp trổ hoa thơm ngát những mùa xuân. Tôi đứng bên hàng rào ngăn chia hai nhà, nói với chàng về một loại hoa màu hồng bên vườn nhà cũ:
"Hoa azelea đó anh, còn gọi là hoa quyên."
Ngày chúng tôi đến thành phố, hoa azelea chưa nở. Ngày chúng tôi đến thành phố, vào mùa đông, nước Mỹ có rất ít để chào đón. Một nửa căn nhà trống trải, đêm ngủ trên sàn nhà gỗ gió lạnh lùa dưới gầm nhà lạnh thấu qua lưng. Bên nửa kia của căn nhà, bên kia vách tường và cánh cửa gỗ luôn luôn được khóa kín, là những cô hàng xóm có lẽ vì nghề nghiệp nên không thân thiện, những cô kỷ nữ thức đêm ngủ ngày nên lâu lâu vào những buổi sáng nào chúng tôi hơi ồn ào họ đã ném mạnh một vật cứng vào cánh cửa gỗ để nhắc nhở. Tiếng cạch chát chúa khi một vật cứng đáp vào cánh cửa nghe thật dữ dằn, nhưng đó chỉ là một chi tiết nhỏ trong một xã hội đầy bất ngờ này. Ngày chúng tôi mới đến, nước Mỹ vào mùa đông chỉ có những cơn mưa lạnh đi trước những lần tuyết rơi lấm tấm. Nửa bên căn nhà chúng tôi có cả mười sáu khung cửa cửa sổ, những khung cửa sổ dài hình chữ nhật được che bằng những tấm màn ny-lông mỏng bám đầy bụi, để những khi mưa gió nhìn ra đường tôi chỉ thấy nước Mỹ ở nơi chúng tôi tứ phía là mưa lạnh. Màn cửa ny-lông rẻ tiền, trong suốt, tôi có thể thấy được khi anh tôi đạp xe về nhà giữa trưa thứ Bảy bảo rằng trời mưa ướt át không có khách rửa xe nên chủ nó bắt về sớm. Màn ny-lông trong suốt, mỗi buổi tối tôi có cảm giác như từ ngoài đường người ta nhìn vào để thấy chúng tôi đang làm gì, chúng tôi còn có thể làm gì nữa. Và những buổi tối khi đã tắt đèn, tôi nằm nhìn qua cửa sổ, qua màn ny-lông trong suốt, nhìn ngọn đèn ga-ra nhà bên cạnh, nguồn ánh sáng duy nhất của căn nhà, nhìn và đoán xem nước Mỹ còn gì cho chúng tôi nữa không.
Khi tôi tâm sự rằng tuổi thơ của tôi ở đó sâu đậm hơn tuổi thơ ở Việt Nam, chàng đã cười và cho đó là chuyện dĩ nhiên. Tôi còn quá nhỏ để nhớ, chàng nóị Nhưng tôi nhớ, tôi nhớ rất rổ Tôi chỉ không hay nói ra điều tôi nhớ, và nhiều khi cũng chẳng nói ra rằng tôi nhớ. Những kinh nghiệm không vui thường đậm màu hơn, tôi muốn nói như vậỵ Nơi căn nhà có cả thảy mười sáu khung cửa sổ, những khung cửa sổ như những ngỏ thoát của hạnh phúc, là nơi tôi được trải qua những kinh nghiệm rất khiêm nhượng nhưng rất căn bản của cuộc sống. Nơi đó đã đến thật rõ ràng bấy nhiêu mưa và nắng, bấy nhiêu tuyệt vọng và hy vọng, bấy nhiêu nước mắt và tiếng cười, đưa và đón, mộng và thực. Không bao nhiêu cả, chỉ vừa đủ cho tôi.
Trước khi mùa đông đi qua, những nhà hàng xóm đã dọn ra khỏi nhà bên cạnh. Mùa xuân đến, có người Việt ở thế vào chỗ đó, hai vợ chồng Việt cũng kín cổng cao tường. Mùa xuân đến, mẹ tôi có thể bước ra ngoài và khởi sự một góc vườn nhỏ ở sân sau, chiều đi học về tôi có phận sự tưới. Chủ nhà, sau mùa đông đã đến và dọn lại cây cỏ chung quanh nhà cho quang hơn. Nhưng hình như ông đã không trở lại lần nào nữa suốt mùa xuân đô Mùa xuân, cây cỏ đã được dọn tàm tạm quang đãng, tôi có thể chơi rượt bắt vòng quanh, lâu lâu khám phá ra đây đó có vài cốt xương khô của những con mèo hoang đã chết dưới gầm nhà.
Và, mùa xuân cũng ấm áp đủ khiến bà Florence như một loài chồn sóc thò ra đường thăm xuân, đứng làm quen với tôi bên kia hàng rào.
Lần đầu đối diện bà Florence, tôi ngỡ như mình đang thấy một bà tiên. Bà đạo mạo với mái tóc trắng búi cao, với khôn mặt gầy nghiêm nghị, với cách phục sức dịu màu trang nhã. Tôi đang đứng tưới những cây hoa khi bà lên tiếng gọi, giọng cao. Tôi ngẩng lên nhìn, nhưng dù cho bà đã như là một bà tiên trước mắt tôi, sự xuất hiện đột ngột của bà đã làm tôi thấy sợ. Mấy hôm trước, em trai tôi trong một lúc nghịch ngợm với cái ná đã lỡ tay bắn một hòn sỏi qua bên vườn của người hàng xóm đàng sau. Viên sỏi bắn lỡ không làm gẫy hoa, không làm vỡ cửa kính, không làm chết chim chóc, nhưng bà chủ nhà cũng dọa gọi cảnh sát. Anh tôi cũng mấy hôm trước trong ngày dọn vườn, đã đốt lá khô ngoài sân sau. Khói bốc đã gây báo động sở cứu hỏa, và chỉ độ mười lăm phút sau đã có hai xe cứu hỏa đầy đủ vòi rồng còi hú kéo đến trước nhà. Cho nên sự xuất hiện trong nháy mắt của bà Florence đã làm tôi giật mình. Tôi có làm gì sai không, tôi chỉ đang tưới cây thôi.
Tôi hiểu khi bà nói rằng bà là Miss Baudoin, nhưng tôi có thể gọi bà là Florence. Miss Florence hỏi tôi học lớp mấy trường nào và giáo viên tên gì. Tôi nói tôi học tiểu học La Rosen, cô giáo tên Ernie. Cô Ernie ngày xưa là học trò tao, Miss Florence nói. Tôi không biết nói à như vậy bà là sư tổ của tôi nên tôi im lặng.
Khi tôi vào nhà và báo động mẹ tôi rằng có người hàng xóm muốn gặp, bà nhìn tôi ái ngại như trời ơi con lại làm chuyện gì nữa đây. Ngày đó, tôi rất sợ làm mẹ tôi buồn, những cơn buồn cấn thêm vào những cơn hoang mang khi chưa ổn định đem bà tới mức nóng nảy tôi chưa bao giờ thấy. Tôi cố để làm bà vui lòng. Ðàng nào đi nữa, ít nhất tôi đã không bỏ nhà ra đi như các anh chị em khác trong nhà hết thẩy đều đã ít nhất một lầnbỏ nhà ra đi rồi lại trở về. Cảnh bỏ nhà ra đi đã buồn, cảnh trở về lại càng buồn hơn. Sáng đó là sáng Chủ Nhật. Gặp mẹ tôi, Florence nói rằng bà hay thấy chu"ng tôi đi bộ đến nhà thờ, vậy mai mốt hãy đi chung xe với bà nếu muốn. Thế là mẹ tôi có được một người láng giềng gần, một người láng giềng tốt. Mẹ tôi, cả một đời chỉ biết lo cho chồng con, không có đến một người bạn gần gũi. Nhưng Florence không chồng con mà hình như cũng chẳng có bạn bè, cũng chẳng thân thiện với hàng xóm chung quanh. Quen được một thời gian, tôi biết bà chỉ có hai thứ để bầu bạn: cái ti-vi và cái xe hơi hiệu Ford truyền lại cho bà từ đời song thân. Cái ti-vi để mở từ sáng đến tối Florence bảo là để cho căn nhà còn có tiếng người. Cái xe Ford bốn cửa tuy đã lâu đời nhưng còn được giữ gìn rất kỹ tôi nghĩ không bao giờ được lăn bánh đi đâu quá ba mươi dậm từ sân chứa.
Tôi theo mẹ vào nhà Florence cái ngày bà mở cửa mời láng giềng vào chơị Florence bảo từ ngày mẹ bà chết, cách đây cũng hơn hai mươi năm, căn nhà bà không có gì thay đổi. Cho nên trước khi bước vào nhà bà, tôi đã tưởng tượng đến một viện bảo tàng, và khi đã bước vào rồi tôi không hiểu sao bà có thể sống trong sự u tối đó mấy chục năm. Tôi rón rén bước qua từng phòng trong nhà Florence, chân nhẹ nhàng nhón gót, tay không dám chạm bất cứ đồ vật gì trong nhà, sợ làm xê dịch vị trí đã được ổn định từ mấy chục năm qua. Mẹ tôi sửng sốt trước sự nối tiếp êm đềm từ đời mẹ sang đời con của gia đình Baudoin, một sự tiếp nối gần một thế kỷ không gián đoạn. Mẹ tôi sửng sốt vì nơi đây, mặt đất quá hiền hoà người ta có thể dung thân tại một chỗ duy nhất suốt một thế kỷ, hay nhiều thế kỷ nữa, dung thân yên ổn, không cần phải biết, không cần phải thấy, và có lẽ không tin rằng ở những nơi khác, dù trên cùng một mặt đất,một thế kỷ trải qua đã có liên tiếp nhiều thế hệ như những lớp sóng táp vội vào bờ, đến rồi đi, những thế hệ bỏ đất mà đi, những thế hệ vùi sâu dưới lòng đất.
Mùa xuân đến đem theo loài azeleas, loài trà mi, mộc lan và những thứ hoa khác tôi không biết tên. Mùa xuân thứ nhất, các anh tôi tính lại chuyện học hành, trong đó có anh thu xếp vào nội trú, để lại cho tôi mấy chậu cá lia thia. Trước tuần nghỉ xuân, tôi đem giấy nhà trường về nhà, giấy mời phụ huynh đến trường cùng với giáo viên kiểm điểm lại học vấn của con em. Lần ấy anh tôi tò mò, ký giấy sẽ đến. Anh đã đến gặp bà giáo Ernie, để trở về nhà với phiếu điểm của tôi và một nụ cười khó hiểu.
Anh đưa tôi xem phiếu điểm, nói: "Bà Ernie cho anh biết em đang chơi với vài đứa trẻ không ngoan."
Tôi cầm phiếu điểm, chột dạ, dù đã biết trước được điểm của mình. Không có gì quá đáng, chỉ có điểm hạnh kiểm là quá mức "có thể chấp nhận được". Tôi dán mắt vào phiếu điểm, không hiểu những đứa khác giờ này cũng đang nhìn phiếu điểm không biết có bấn loạn hơn tôi. Tôi không nhớ tôi có tội gì, chỉ nhớ có một lần, sau giờ ra chơi, chúng tôi trở vào lớp và theo lời bà Ernie lúc đó thì chúng tôi không còn hìng dạng gì cho thấy chúng tôi là con người. Bà Ernie nói khó hiểu quá. Hèn chi chúng nó vẻ râu lên hình bà, bắn bi trong lớp bà, nghịch lửa trong lớp bà, truyền thư trong lớp bà, dấu chìa khóa vào lớp của bà. Tôi vui vì đã được lũ trẻ Mỹ thu nhận và ưa thích. Tôi vui vì được nhập bọn với Karen thông minh nhất lớp, và Quinn Martie nghịch ngợm nhưng hay bênh vực bạn. Có lẽ, anh tôi cũng vui vì em gái đang bắt đầu sống trở lại nên anh cười. Tôi, một đứa trẻ, đang tập sống trở lại giữa những đứa trẻ khác giống. Những đứa trẻ không biết phân biệt nòi giống hầu để ghét hay để ưa. Tâm tình mọi đứa trẻ dưới mọi nơi đều giống hệt như nhau. Trẻ em không ngoan nhưng không nên có anh hùng. Một xã hội huấn luyện trẻ em thành anh hùng là một xã hội có một cái gì đó đã sai.
Bà Ernie cuối năm ấy về hưu. Dù không ưa bà, bọn trẻ cũng định tổ chức một bữa tiễn đưa bà, chỉ thêm cớ để khỏi phải học. Tôi xung phong viết thư tiễn biệt, dù chẳng ai mời, dù biết mình còn dở chữ. Bọn trẻ chỉ ậm ừ thôi. Tôi cũng không quan trọng hóa việc viết thư, nháp được một trang rồi cất một góc lớp. Rồi tôi quên bẵng. Gần đến ngày bãi trường, bà Ernie dọn lớp và bắt được lá thư. Lá thư viết nháp cũng đủ làm bà rơi lệ, và chẳng nói chẳng rằng bà đến ôm chầm lấy con Quinn Martie là đứa học trò thiếu khả năng nhất. "Quinn Martie tôi ngờ trò đã viết lên những lời này." Bà Ernie nghẹn lời. Tôi có cảm giác rất chính xác là nước mắt của bà không hơn gì những giọt nước mắt ứa ra khi tôi ngáp dài mỗi sáng. Karen nhìn tôi, nói vừa đủ để tôi nghe rằng nó biết tôi mới là người viết thư đó. Nhưng bà Ernie cũng biết chứ! Nét chữ đó là nét chữ của tôi, lời lẽ đó chỉ có tôi mới viết được, bà là người chấm bài tôi hằng ngày chẳng lẽ bà không biết! Tôi nhìn Karen cười, oh I lied, tao viết xạo đó mày.
Nhưng cũng từ đó trở đi, tôi biết tôi không nên viết dối những chuyện như vậy nữa. Tôi vẫn viết dối, chỉ không viết dối để những người tôi không ưa hiểu lầm tình cảm của tôi thôi.
Không được chuộng bằng một đứa học trò bản xứ, tôi cũng chẳng lấy gì làm buồn rầu. Ðiều làm tôi khó chịu là bà Ernie sau khi đã về hưu vẫn thường hay lui tới nhà tôi, như thể bà là người nhiều lòng bác ái. Bà Ernie đến chơi nhưng ít khi nào ghé sang thăm người giáo cũ của bà là Florence. Bà Ernie bảo Florence từ hồi nào đến giờ vẫn khó tính, luôn luôn có một thái độ như mình ở một địa vị cao hơn mọi người, rất khó thân. Đến đỗi Florence đã từ chối hôn nhân với vị hiệu trưởng vào thuở xưa khi còn dạy học. Ông ta về sau làm đến thị trưởng, còn Florence vẫn là gái già. Bà Ernie hé một tí tình sử của Florence, kể qua khói thuốc. Chẳng hiểu vì bà Ernie đã hút thuốc lá hay sao mà tôi đã cảm thấy không thích nghe.
"Sao bà không lấy chồng", mẹ tôi vui miệng hỏi Florence một lần. Florence im lặng, tôi tưởng bà sẽ quay qua và dạy rằng đó là một câu hỏi thiếu lịch sự, như khi bà bảo tôi là bấm kèn inh ỏi trước sân nhà người, dù người quen, là một hành độ ng bất lịch sự. Nhưng Florence đã trả lời mẹ tôi, vì dù sao mẹ tôi cũng không phải là người đáng ghét nhất đã hỏi bà điều đó. Florence nói bà không định để sống độc thân, bà cũng không nghĩ bà phải lấy chồng, bà đã sống một lối sống thích hợp nhất nên chẳng bao giờ nghĩ đời sống bà có thể khác đi như thế nào.
Câu trả lời của Florence chẳng trả lời gì cả. Tôi cũng chẳng thắc mắc gì, chỉ tượng tượng bà ở một mình trong căn nhà đó thừa chỗ quá, giá chi bà cho tôi vào ở ké. Tôi tưởng tượng một mình tôi một phòng trong căn nhà rộng rãi mát mẻ. Nhà tôi chật chội hơn nhiều, sự chật chội không có chi là đầm ấm cả, và nhất là không buồn cười đâu.
Mùa đông thứ hai, một người anh của tôi trở về từ nội trú với cánh tay bó bột. Cả nhà không hề được anh báo tin bị gẫy tay, gẫy vì chơi đô vật trong giờ thể thao trường. Mùa đông ấy, Florence mua quà cho tôi, đôi găng tay màu đỏ bà mua từ một trong những hiệu đắt nhất. Ðôi găng tay màu đỏ quá sang trọng tôi không bao giờ dám đeo vì không hợp với loại quần áo tôi mặc. Mùa đông ấy, Florence cũng báo tin em gái bà sắp trở về từ Trung Hoa. Laurie, người em gái ngoài sáu mươi tuổi của Florence đã mãn việc ở tòa lãnh sự Hoa Kỳ tại Trung Hoa và sẽ về nghỉ hưu với chị. Và, cũng như chị, Laurie Baudoin không hề lập gia đình.
Những ngày Laurie mới về là những ngày nhà Florence đông khách nhất. Khách đến thăm lẻ tẻ kéo dài nhiều ngày, và đến khi không còn khách nữa thì Laurie qua nhà chúng tôi chơi. Laurie cũng cốt cách như người chị già, dáng dấp nhỏ nhắn thanh tao, y phục màu sắc trang nhã. Những câu chuyện của Laurie rộng đề tài hơn chị, những câu chuyện như vô tận của người từng nay đây mai đó trong cõi Á Châu bao la. Nhưng, Laurie nhấn mạnh chữ nhưng, bà chưa bao giờ được đến Việt Nam cả. Laurie đi khắp Á Châu trong mấy chục năm liền nhưng không một lần dừng chân lại Việt Nam, về đến nhà lại nghe chị nói rất nhiều về những người Việt Nam sống bên cạnh. Vâng, Laurie nói chuyện rất khéo léo, bắt hết từ chuyện này qua chuyện kia để sự hiện diện của Florence ở đó chỉ còn là một sự hiện diện phụ thêm. Lần có Laurie ghé sang chơi, mẹ tôi ngại ngùng phân trần nhà chúng tôi không có gì đẹp đẽ để dẫn bà đi thăm nhà. Cắt lời mẹ tôi, Florence nói rằng mai kia chúng tôi sẽ phải đến thăm kho tàng Laurie mới đem về từ Á Châu, những đồ đạc trang hoàng quý giá Laurie sẽ dùng vào căn nhà mới.
Mẹ tôi sửng sốt hỏi Florence "Vậy bà sẽ dọn đi sao?". Florence lắc đầu trả lời rằng Laurie sẽ dọn ra riêng. Hai chị em, nhưng vẫn là hai thế giới riêng biệt, và cả hai đều đầy đủ, vững vàng trong thế giới riêng của mỗi người.
Laurie cũng về kịp đám tang anh lớn của tôi vài tháng sau đó. Trong những ngày gia đình tôi lúng túng trước cái tang bất ngờ, Laurence và Laurie đã luôn luôn ở cận kề, một sự thường trực quá chu đáo chúng tôi không thể đòi hỏi gì hơn. Khi anh tôi đã yên mồ, Florence bảo chúng tôi nên thay màn cửa, và vài ngày sau bà đem qua nhà chúng tôi bộ màn cửa bên nhà bà, treo từ đời người mẹ. Bộ màn cửa custom-made cũ kỹ chỉ vừa cho phòng ngủ. Mẹ tôi không có ý kiến gì về chuyện thay màn. Vải màn dầy cộm che ánh sáng mặt trời ban ngày làm cho căn phòng lúc nào cũng mang một màu lờ mờ khiến tôi liên tưởng đến nhà quàn.
Florence nói, qua những khung cửa sổ thiếu màn che của chúng tôi, có nhiều tối bà đã thấy rõ mồn một cảnh sống gia - đình tôi.
Tôi không hiểu bà có nhìn qua nhà tôi chăng, tối trước đêm anh tôi ra đi vĩnh viễn. Chẳng hiểu bà có thấy tôi có bức ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp đã trên tường tụt đinh rơi xuống đất, để anh lật đật đi tìm búa đóng đinh vào tường treo tranh trở lại. Chẳng hiểu bà có thấy tối đó anh đã mình trần đứng trước gương chải đầu bực mình không biết sẽ rẽ ngôi tóc bên phải hay bên trái hay chính giữa. Chẳng hiểu tối đó bà có nhìn qua chăng, để thấy anh tôi bực dọc hơn mọi ngày, mắng mỏ em lớn em bé là một lũ ngu như bò, để thất tôi nằm quay mặt vào tường bực bội thầm giục thôi anh đi làm thì đi đi cho tôi còn ngủ.
Và anh đã đi luôn, để tôi còn nhỏ bước vào những bóng đêm dài nhất cuộc đời, dù không có ác mộng, những bóng đêm khi tôi ngộp thở nằm lắng nghe những tiếng động sẽ sàng nhất để tưởng chừng như anh đang trở về nhà, lưu luyến xác nhận sự hiện diện của anh, sự hiện diện mỏng manh nhẹ hẫng chỉ có tôi mới biết.
Anh đi luôn để tôi vỡ tan, vỡ tan tôi biết tôi không thể nào gượng dậy nổi. Anh buông bàn tay giữ dắt để tôi chìm sâu, chìm sâu để vùng vẫy đạp chân đạp tay hoài mà tôi vẫn không tài nào ngóc được lên trên.
Tôi đã nằm nín thở, không dám thở, nhìn bóng đêm không hiểu tôi còn muốn gì nữa, còn có thể muốn gì nữa. Tôi nhìn bóng đêm nước Mỹ nơi chúng tôi ở, không biết nước Mỹ còn gì cho chúng tôi, còn có thể còn gì nữa cho chúng tôi.
Phạm Thị Ngọc
(còn tiếp phần 2)