vhnt, số 174
15 April 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Chút tình còn lại .............................................Vũ Gia
2 - Vô tình ...................................................Tô Hoài Nam
3 - Tan vỡ ........................................................Sao Băng
4 - Tâm sự với mùa xuân ......................Nguyễn Phước Nguyên
5 - Ngày vui sẽ đến .........................................Nhật Quân
G i ớ i T h i ệ u S á c h B á o :
6 - Sách báo trong tháng ...................................Dung Nguyen g/t
G i ới T h i ệ u N h ạc (lời nhạc):
7 - Nhớ về Ðà Lạt .................................................K.H.
8 - Một giấc mơ đời .................................Lê Trần Hoàng
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Phở (tản văn) ................................................Phú Lê
10- Bình trà nhung nhớ (tùy bút) ..............................Hoài Nam
11- Cái Lài (Mùa hè khó quên) .............................Thái Nguyên
Chúc bạn đọc một ngày đầu tuần vui, thanh thản, và nhiều... "energy" cho những ngày làm việc trong tuần.
thân ái,
PCL/vhnt
Chút Tình Còn Lại
Mười năm gặp lại
Em đã tay bế tay bồng
Nhắc đến chuyện xưa
em nhoẻn miệng cười
như có
như không...
Cánh phượng vĩ học trò đang khoe sắc
Thời yêu đương hò hẹn góc sân trường
Anh bạc tóc sau nhiều năm lưu lạc
Tình trống không, tiền vỗ trắng tay đời
Chỉ còn lại
ngọn lửa tình sắp lụi
và nụ cười phảng phất tuổi đôi mươi.
Vũ Gia
Vô Tình
TTKH ơi!!
Giờ đây còn đâu nữa,
Ngàn năm một thuở
Chia ly rồi tan tác lệ trào dâng
Năm, tháng âm thầm... ta sẽ...
Mang trong lòng buồn, thương, tủi, hận,
Mang trong lòng đắn đo suy gẫm
Một chữ ngờ xé nát buồng tim.
Xót xa giữa giòng đời hoang dại,
Gác lòng non bên thềm ân ái; phũ phàng
Môi nín lặng nhưng hồn sao tê tái
Tin hay ngờ trăm nỗi dở dang.
Ai biết cho ta nỗi niềm tan nát,
Những đêm dài tê lạnh buốt từng cơn,
Tin, yêu hay rẫy ruồng phụ bạc??
Chìa khoá nào mở được cửa tâm hồn.
Chừ đây Người đã sang ngang,
Mang theo cả giấc mộng vàng thiên thu,
Gió buồn, trăng lạnh, sao mờ
Cỏ cây tan tác, lững lờ hoa rơi
Cho dù vật đổi sao dời
Làm sao quên được những ngày ái ân
Dù cho sông núi cách phân
Tình kia vẫn trọng lạnh lùng sao đang
Chừ đây gió núi trăng ngàn
Ngồi đây hận tủi bẽ bàng duyên xưa
Nén hương trầm lặng tiển đưa
Giữa đêm cô tịch gió mưa liệm buồn
Tô Hoài Nam
Tan Vỡ
Viết cho Hoàng Sơn & Thùy Dương
Ðêm nay trời bỗng lên cơn bão nhỏ.
Biết về đâu khi tình yêu đã mất?
Mộng không thành, ta lạc lỏng bơ vơ,
Phố chợ người đông một mình rảo bước,
Nghe gió thu đùa réo rắt bên tai.
Xác lá rơi là mảnh hồn thu đó
Vương vấn cùng ta nâng chén lụy.
Sao Băng
tâm sự với mùa Xuân
1.
cơn gió mùa đông thổi luồn ký ức
nẻo nhớ quay về khấp khễnh thực hư
nhịp sống quanh đây đằng đằng gai nhọn
mười tám năm, đời kết nụ ưu tư
hạt giống tâm linh trổ nhánh đời oan trái
trên tảng đá trơ mình bờ biển Thái Bình Dương
dăm lúc dội vang tiếng sóng ngặt nghèo
sự-có-mặt-tôi-vô-tình vay mượn
hơi thở khói sương hắt ngày tháng lạ
buồng phổi nám cằn vết cứa màu da
tôi sống ung thư hấp hối Sài-Gòn
khúc khắc cơn ho có máu đời cặn bã
em đứng hồn nhiên nụ cười kiểu cách
son phấn linh hồn trang điểm lương tâm
bóng tối Việt Nam sáng chỗ em nằm
em hãnh diện vai trò cung cấm
nước mắt thủy tinh rơi trên mặt hồ môi sinh phẳng lặng
huyết quản nhọc nhằn viên đạn tháng Tư
tôi vẫn hình dung em rất quê mùa
(loài sứa rằn ri những điều hữu sự)
chín nhánh sông chia một đời rong biển
tôi đứng sặc cười bên triển vọng vực sâu
hạnh phúc pha lê của loài ốc mượn hồn
tôi trở chứng đòi yêu em cẩn trọng
2.
rừng bên kia biển trầm trầm bất trắc
con rắn hiện hình chiếc lưỡi nhân tâm
bầy thú man khai yêu lối sống thị thành
phố xá lặng thinh bắt đầu suy gẫm
nói với mùa xuân nhọc nhằn hương sắc
diễn nghĩa đất trời cho đúng thời trang
sa mạc tháng Tư mọc lý tưởng xương rồng
tôi tự tử vào từng hư ảnh
3.
tôi có ngày mưa trong văn phòng không cửa sổ
muốn rủ em về thăm căn phố trọ ngày xưa
đêm trắng Houston,
nhớ ly-cà-phê-đắng-lúc-trước-bình-minh ở College Station
nhưng rất ngọt bên này, bên đó
khủng hoảng con tim lên New York chôn niềm đau nhân bản
một chuyến quay về thảng thốt niềm tin
con én cánh nâu cất tiếng hót nhu mì
đêm đối diện đáy chung trà hạnh ngô.
khúc nhạc tự tình bỏ quên hôm về thăm trí nhớ
đóa hoa Quỳnh nở thoát niềm tâm thức nửa đêm
ngôn ngữ con tim rộng hẹp bất ngờ
tôi nghiệm thấy những điều khó nghĩ
giọt sống luân lưu lên nỗi buồn chữ nghĩa
những mảnh ván thuyền chuyên chở hơi thở biển Đông
năm ngón tay trơ hốc hác từng âm hưởng dư thừa
tôi đánh mất. bỏ quên. và bắt gặp.
em nào hiểu sông chia, rồi hội nhập
cũng rất cần, nên trái đất xoay quanh
4.
đến hỏi thăm em về giấc mơ của một vầng trăng khuyết
ngày tháng lập lòe trên trí nhớ lân tinh
tôi có đêm sâu làm rực sáng những mộng mị tinh cầu
khi cúi xuống hôn em vào mặc tưởng
5.
em có hiểu niềm đau của một ngày nắng tắt
trên khoảng cách giữa thiên đường và tầm với của đôi tay
mặt đất bao dung mọc rộ những nhân hình
chen chúc sống, bóng che nhau, ngỡ rằng nguyệt thực
giữa nắng và mưa là con đường tuyệt địa
giữa đêm với ngày là quỹ đạo thực hư
giữa em và tôi (và khoảng cách vô hình)
là nhịp đập của buồng tim nhân tạo
6.
lộng lẫy nỗi buồn trăng rằm tháng tám
trầm bóng nhân gian kỳ tích cuộc tình
gửi xác thân tôi mối thù diễm ảo
mai mốt về độc thoại trước chiêm bao
trống vắng bình minh lên tháng ngày câm lặng
con dốc thở dài thoai thoải niềm đau
tiếng hát em, mặt trăng và sự tích của con người
đem theo chuyến hành trình vào bản ngã
tháng chín đời tư có cơn mưa thời hạn
mai mối bọt bèo vào nguồn cội dòng sông
tôi sống thong dong trong niềm riêng ràng buột
trao chuốt nụ-cười-thành-khẩn-với-lương-tâm
7.
trước cánh cửa mở đời sau có tấm gương treo soi đời trước
tôi đối diện mình và hằn học với con tim
nguyễn phước nguyên
Niềm Mơ Ước
Niềm mơ ước tình em sẽ đẹp
Nắng chan hoà và gió thoảng mơn man
Cánh bướm vàng vờn nhẹ bước quan san
Dấu aí ân tô điểm hồng đôi má
Buổi hẹn đầu thời gian qua vội quá
Nét thẹn thùng che kín ánh mắt yêu
Tim đập vội nén chìm câu muốn ngỏ
Dành im tiếng, nhịp thời gian đều gõ
Rồi trách móc ai quá vô tình
Lối đi về dẫu bước chung đôi
Mà tim đập sao không cùng nhịp
Tan mùa học anh rời phố thị
Chưa một lời nguyện ước vu vơ
Ðể nắng hè lặng lẽ ngẫn ngơ
Và thu đến âm thầm qua đó.
Gió mùa ơi, xin gởi niềm nhung nhớ
Chút hương thơm vườn cũ đến trời xa
Xin trao lời nhắn nhủ ngày qua
Dẫu nắng vàng ngập bước đường hoa
Hoặc cuối đời nhoà nhạt phôi pha
Xin chờ nhé người em thềm cũ
Dấu tình hồng vẫn còn vương giấc ngủ
Nắng hanh thề hôn nhẹ suối tóc thơ
Gió xa về rung nhẹ tiếng tơ
Cài lên tóc cành hoa từ xứ lạ
Lời yêu đầu khẽ nói bên tai:
Niềm mơ ước nay đáp đền bằng khao khát.
Nhật Quân
SÁCH BÁO TRONG THÁNG
Người Lính Không Có Vũ Khí
Tuyển tập truyện ngắn của Nguyễn Mạnh An Dân, Làng Văn xuất bản 1995, 227 trang, giá US$11.00. Liên lạc: Làng Văn, Canada.
Sách gồm tám truyện, đề tài tập trung chung quanh biến cố sụp đổ Miền Nam năm 1975 và trại cải tạo, chỉ có hai truyện khung cảnh có thay đổi nhưng nhân vật vẫn vậy: đi cải tạo trở về và vượt biển đến đảo. Nguyễn Mạnh An Dân ghi nhận và trình bày một số tình huống điển hình của biến cố năm ấy và các hệ quả của nó: tấm lòng của bà mẹ trên bước đường di tản đối với những đứa con trai đang tản mác ở các mặt trận, những trận đánh và giờ phút cuối cùng của một đơn vị, một số tính cách của người đi tù cải tạo, một trường hợp đặc biệt trên đảo tị nạn...
Không một cảnh nào vui cả. Toàn là đau xót, lo âu, đối phó, phẫn nộ. Nhưng tác giả có vẻ không nhằm trình bày những điều ấy, hay ít ra đó không phải là mục đích chính, điều tác giả muốn nhấn mạnh trong hầu như tất cả các truyện là tư cách của con người trong những tình huống bi đát. Những nhân vật chúng ta gặp không phải là anh hùng với một nhân cách phi thường, họ cũng là những người bình thường biết sợ hãi, biết luồn lách để sống còn, nhưng điểm tối thiểu là họ không để đánh mất lương tâm.
Anh Hùng Và Giai Nhân Việt Nam và Người Việt Nam Nhớ Về Nguồn Gốc Việt Nam
Hai cuốn kịch thơ và thơ của tác giả Dỵ Sỹ Phạm Nguyên Lương, Nguồn Sống xuất bản, cuốn thứ nhất dày 190 trang, giá US$12.00; cuốn thứ hai 168 trang, giá US$12.00. Liên lạc: Nguồn Sống, San Jose, CA.
Tổng cộng trong hai cuốn có năm vở kịch thơ: Mỵ Châu và Trọng Thủy (ba màn), Trận Bạch Ðằng Giang (bốn màn), Gương Kiên Nhẫn Phục Quốc Của Bình Ðịnh Vương Lê Lợi (ba màn), Sự Tích Sơn Tinh và Thủy Tinh (hai màn), Anh Hùng Và Giai Nhân Việt Nam (năm màn). Ngoài ra mỗi cuốn còn một số bài thơ nhớ về quê hương, hoặc cảm tác trong nhiều tình huống khác nhau của cuộc sống.
Tác giả, Dỵ sỹ Phạm Nguyên Lương, đã nói lý do khiến ông viết kịch thơ như sau: Với hy vọng gợi lại cho chúng ta những gương sáng yêu nước, giúp nước của người xưa, cũng như nhắc nhở những trang sử oai hùng của giòng giống Việt Nam... Với hy vọng lưu ý những người lớn tuổi khỏi quên đi những cái đáng hãnh diện trong lịch sử nguồn gốc của mình; và cũng để hướng dẫn những người trẻ, những trẻ em gốc Việt sinh đẻ ở hải ngoại học biết được những oai hùng, những gương sáng yêu nước, nhớ nguồn của Ông Cha chúng ta...
Lời thơ của Phạm Nguyên Lương rất đơn giản, ít chất thơ. Trong kịch, đặc điểm đó có lợi thế làm cho những lời đối thoại trở nên thực hơn, chẳng khác mấy với lời lẽ bộc trực của thoại kịch. Mà lại có vần, nghe êm tai. Lời lẽ như thế sẽ giúp những người trẻ tuổi Việt Nam ở hải ngoại hiểu dễ dàng hơn là những câu thơ quá ý nhị, cầu kỳ.
Một số vở kịch nói trên đã được diễn tại một số cộng đồng người Việt. Ðó là điều thích hợp, vì đây là kịch bản để diễn hơn kịch bản văn học.
Vietnam, A Traveler's Literary Companion
Tập truyện ngắn Việt Nam dịch sang tiếng Anh, Whereabouts Press xuất bản, John Balaban và Nguyễn Quí Ðức tuyển chọn, 239 trang, giá US$12.95. Liên lạc: Whereabouts Press, San Francisco, CA.
Sách gồm bốn truyện của Nguyễn Huy Thiệp, và các tác giả khác mỗi người một truyện: Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Lê Minh Khuê, Doãn Quốc Sỹ, Bảo Ninh, Nguyễn Quý Ðức, Andrew Q. Lam, Thích Ðức Thiện, Vũ Bảo, Linh Bảo, Quý Thể và Nguyễn Bá Trạc. Các truyện được dịch bởi nhiều người khác nhau (trừ hai truyện viết thẳng bằng tiếng Anh của Nguyễn Quí Ðức và Andrew Q. Lam): Phan Huy Ðường và Nina McPherson, Greg Lockhart, Nguyễn Quí Ðức, Hồ Anh Thái và Wayne Karlin, Võ Ðình Mai, Trần Quý Phiệt v.v...
20 Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại 1975 - 1995
Tuyển tập văn, thơ và họa của 158 tác giả, do Ðại Nam xuất bản 1995, gồm hai tập khổ lớn, giấy mỏng, chữ nhỏ, bìa cứng, tổng cộng 1,584 trang, giá 60 mỹ kim. Liên lạc: Dainamco, Glendale CA.
Do Trương Ðình Nho (giám đốc nhà xuất bản Ðại Nam) chủ trương, tuyển tập "20 Năm..." được Khánh Trường, Cao Xuân Huy và Trương Ðình Luân thực hiện, đây quả là một bộ sách đồ sộ, in ấn công phu.
Sự nhất quán trong phong cách của biên tập cho một số lượng 158 tác giả cũng là một ưu điểm về mặt xuất bản.
Dầu sao, tuyển tập "20 Năm..." cũng cần có, trong ý nghĩa đánh dấu một giai đoạn trong dòng văn học Việt Nam. (LTC)
Nhà Văn Già Và Cô Bé Gù
Tập truyện của Thế Uyên, Xuân Thu xuất bản, dày 206 trang, giá 11 mỹ kim. Liên lạc: Los Alamitos, CA.
Ðây là cuốn sách thứ bảy của Thế Uyên được in ở hải ngoại từ khi ông sang Mỹ năm 1987.
Thế Uyên có sách in ở Việt Nam từ 1962, khi ông 27 tuổi, và ông viết nhiều thể loại, chứ không chỉ có truyện ngắn.
Năm 1969, ông xuất bản bộ sách dịch, nghiên cứu về tình dục, gồm bốn cuốn. Và đề tài về tình dục hầu như hiện diện, thường khi chế ngự, ở hầu hết các truyện ngắn, dài của ông.
Cô bé gù trong truyện ngắn "Nhà Văn Già Và Cô Bé Gù" (mà ông dùng làm tên chung cho tuyển tập) cũng là một khuôn mặt của dục tính ẩn ức. Có lẽ ông theo "thuyết" của André Gide: "thèm muốn, nhưng đừng thỏa mãn" (désirer, mais jamais posséder).
Hầu hết các truyện hoặc đoản văn trong tập này đều đã được đăng báo. Nhưng tám năm in bảy cuốn sách, Thế Uyên phải được coi là người viết khỏe. Nhất là ông còn trì chí đi học lại, và lấy được bằng BA ở đại học Washington. (LTC)
Tiểu Thư, Con Gái Nhà Ai?
Tuyển tập "truyện ngắn" của Hoàng Dược Thảo, Saigon Nhỏ xuất bản, dày 290 trang, giá 15.00 mỹ kim. Liên lạc: Saigon Nhỏ, Westminster CA.
Xuất thân là một dược sĩ (tốt nghiệp ở Saigon trước 1975), Hoàng Dược Thảo, tên khai sinh là Huỳnh Thụy Châu, viết văn, làm báo như một sự tình cờ, một nghề bất đắc dĩ - nhưng lại rất thành công. Tờ tuần báo Saigon Nhỏ của cô đã ra tới năm thứ 10, và hiện có nhiều ấn bản ở nhiều nơi trên vùng Bắc Mỹ.
"Tiểu Thư, Con Gái Nhà Ai?" là cuốn sách đầu tiên cô in, sau khi đã viết hàng trăm bài báo, và tùy bút, truyện ngắn đăng báo. Ðúng ra, đây là những đoản văn, với dọng văn nhí nhảnh rất "con gái," pha chút chua cay của một... nhà báo. Không gọi là truyện ngắn, vì nhiều "bài" không có kết cấu của một truyện, đôi khi lãng đãng, mơ hồ, như một tùy bút.
Hoàng Dược Thảo coi việc in sách của mình là một "đầu hàng" - chắc là đầu hàng định mệnh, vì đã học để làm người bào chế thuốc, nay trở thành "nhà văn."
Cô viết ở "Những dòng cuối sách": "Thôi thì, sách đã in ra như một phần đời sống đã phơi bày. Trong nỗi ngượng ngùng không thể trốn tránh vào đâu được, lại phải có 'can đảm' mà nhận làm... nhà văn thôi." (LTC)
Riêng Và Chung
Tập thơ của các thi sĩ sinh viên xuất bản. Mười một nhà thơ với 100 bài thơ mang nhiều dáng vẻ khác nhau, nhịp điệu đa dạng. Hầu hết họ đều sinh ra trong những năm đầu thập kỷ 70 và hiện còn đang ngồi trên ghế nhà trường. Vì vậy, trời thơ của họ là tình yêu mới lớn, là mái ấm gia đình. Hình ảnh thầy bạn, anh chị em chan hòa trên mọi trang thơ. Dĩ nhiên nhiều nhất, rõ nét nhất vẫn là người Mẹ trọn đời tần tảo cho con.
Mưa Phủ xuống một đời của mẹ
Phía trời xa còn sấm sét bão bùng.
Thương Mẹ Ngày Mưa - Sơn Ngọc
Cho dù sinh ra và lớn lên trên một quê hương không còn bom đạn. Tuổi trẻ Việt Nam vẫn chưa được biết trọn vẹn niềm hạnh phúc của thời thanh xuân. Cay đắng còn bảng lảng trong lòng, trong thơ...
Sinh nhật
Không nến hồng, bè bạn
Chỉ có mẹ góc phòng và năm tháng
Tiễn con đi
Sinh Nhật - Thanh Hà
Khắc khổ đời cha
Lo toan đời mẹ
Nhọc nhằn giấc ngủ ướt nhòe đời con
Truyền Thuyết Tình Yêu Và Nỗi Nhớ Quê Hương - Trương Gia Hòa
Riêng Và Chung là tập thơ những suy tư, dằn vặt của lớp thanh niên về thân phận, về quê hương, 20 năm sau khi tiếng súng lịm tắt trên đất nước. Tủi phận trong hiện tại và ngơ ngác trước tương lai. Nhưng họ biết tìm về hơi ấm tình người của thầy của bạn và hơi ấm tình thân của cha mẹ, của gia đình. Kỹ thuật làm thơ có còn đôi chỗ chưa chỉnh, nhưng nhìn chung tập thơ Riêng Và Chung cũng chứng tỏ sự chững chạc của một thế hệ làm thơ trẻ đã lên đường con đường không phải là con đường sương khói.(NMT)
Trích đăng Thế Kỷ 21 - March/1996
Nhớ Về Ðà Lạt
1.
Về đứng bên giòng sông
Bỗng nhớ nguồn suối nhỏ
Một thoáng hương từ xa
Là nhớ thành phố hoa
Ngồi hát trong chiều mưa
Bỗng nhớ màu nắng lụa
Nhớ về từng bàn tay
Nhóm lửa ấm trời đêm.
Này em,
Dù xa,
Dù xa quê hương ngàn hoa.
Lòng ta,
Nhiều khi,
Còn nghe mưa gió thầm thì.
Ơi con đường,
Ơi con đường quanh co dốc cao.
Ta đi hoài,
Ta đi hoài,
Nhưng chưa hề mỏi bước em ơi.
2.
Ngồi nhớ lên đồi thông
Ðể thấy lòng gió lộng
Màu tím khi chiều buông
Làm nhớ tà áo em
Làn gió mang từ xa
Câu hát gợi nhớ nhà
Nhớ về từng nụ hoa
Hé nở giữa trời xuân.
Này em,
Dù xa,
Dù xa quê hương ngàn hoa.
Lòng ta,
Nhiều khi,
Còn nghe mưa gió thầm thì.
Ơi con người,
Ơi con người,
Bao nhiêu ngày gian lao bước quạ
Ta yêu hoài,
Ta yêu hoài,
Như yêu về Ðà Lạt em ơị
K.H
(1987)
Nhạc phẩm "Tỉnh Giấc Mơ Ðời" đã được trình bày qua tiếng hát của ca nhạc sĩ Trịnh Nam Sơn trong cuốn album mới nhất của trung tâm ATM: "Một Chút Ân Tình". Xin gởi đến các bạn.
Tỉnh Giấc Mơ Ðời
nhạc & lời: Lê Trần Hoàng
Mai, khi ta về lại trên phố xưa tìm ai
Bờ môi huyền thoại ngây ngất trao tình ái
Từng tia nắng hồng rót đam mê bao ngày qua
tình yêu ngát nồng lời ân ái đê mê chiều xa.
Mai, khi ta về lại trên phố xưa quạnh hiu
Nhạt phai cuộc tình ôi trái tim mềm yếu
Chiều trên phố người có mây xanh giăng lả lơi?
Ðường trải nhung lụa, cuộc tình xa bay không tiếc nuối
Mộng ước êm đềm, ngày tháng bên nhau nay còn đâu?
Hờ hững đôi bờ, nửa chiếc hôn muộn màng phai dấu
Người cuối chân trời, mềm gấm nhung ngạt ngào hương hoa
Tỉnh giấc mơ đời, lạnh gối chăn một mình ta.
Phở
Người mình ai mà không biết phở. Có những món ăn chỉ đôi lần ăn qua trong cùng ngày là phát ngán, nhưng phở thì không. Tôi có thể ăn phở thế cơm. Sáng trưa chiều tối lúc nào cũng được hết.
Theo giả thiết của cụ Vương Hồng Sển trong cuốn "Sài Gòn tạp pín lù", phở là tên gọi trại ra từ chữ "phảnh" của dân Quảng Đông. Đầu tiên dân Triều Châu nấu xương bò ra nước lèo xong cho bánh sợi vào tô, thêm vài miếng thịt luộc. Họ gọi món này là "củi tiếu", người Quảng gọi là "hủ tiếu". Văn hoa hơn họ gọi là "ngưu nhục phấn", dân Quảng gọi trại ra "ngầu dục phảnh". Du nhập vào miền Bắc nước ta đầu tiên qua mấy "chú ba" gánh hàng qua đường phố mời gọi. Rồi theo thời gian món "phảnh - hủ tiếu" tầm thường đã hoàn toàn biến thể trở thành món phở bất hủ của dân mình.
Có lần đọc đâu đó, không nhớ ai đã ví rằng một tô phở là tổng hợp của một chén súp, một miếng beefsteak và một dĩa spaghetti. Thật đúng không chê vào đâu được. Phải công nhận tô phở đầy đủ chất bổ dưỡng cần thiết. Người bịnh mới ốm dậy, không gì bồi bổ sức khoẻ mau lẹ bằng thưởng thức một tô phở tái chín nạm gầu gân sụn thêm tí hành trần nước béo.
Trước 75, tôi nhớ SG có phở 79 ở đường Võ Tánh và Tàu Bay đường Lý Thái Tổ ăn rất ngon. Bánh phở dày và dai, nước dùng ngọt, thịt xắt miếng lớn và mềm. Sáng chủ nhật người đợi ăn đông như kiến. Sau này có thêm Tương Lai ở Ngã Sáu, dập dìu tài tử giai nhân. Ngày xưa, khuya tôi hay ghé phở Pasteur, lúc đầu chỉ có một xe, sau ra ba bốn tiệm sát nhau và đều có trưng bảng hiệu Pasteur cả. Chắc cũng bà con với nhau hay sao ấy vì mùi vị quán nào cũng gần y hệt nhau. Còn phở Công Lý gần chùa Vĩnh Nghiêm nữa, ăn tạm được chỉ có cái tô phở lớn khủng khiếp thành ra quán này được dân lao động chiếu cố kỹ lưỡng. Ai thích phở gà thì ghé Hiền Vương, cũng có vài ba tiệm kề sát nhau tha hồ mà lựa chọn. Phú Nhuận có phở Quyền. Bạn nào ở cư xá Chu Mạnh Trinh chắc biết xe phở ngay đầu đường Chi Lăng. Hai chị em bà chủ xe phở này là hàng xóm với tôị Năm 54, hai bà vào Nam với một lũ con, chỉ cái quán nhỏ bé đó mà nuôi tất cả các con ăn học thành tài.
Pleiku, Nha Trang, Phan Rang có nhiều tiệm phở nhưng không xuất sắc lắm nên tôi không nhớ rõ, Đà Lạt thì tôi nhớ ngay Hoà Bình có phở Bằng, tô phở đầy thịt bánh tưởng chừng như không thể nào ăn cho hết, nhưng trời lạnh mau đói nên khách ăn nhiều. Ăn xong sau đó tản bộ dưới trời mưa phùn lất phất qua cà phê Tùng gần bên gọi cà phê sữa nóng, ngồi nhìn các cô đi lượn qua lượn lại thì nhất. Ngoài phở Bằng còn có phở Ga mà tôi cũng thích. Kế bên phở Ga là phở Phi Thuyền. Lần đầu ăn ở phở Ga tôi ngạc nhiên hết sức. Tô phở thật lớn và nhiều, ngoài húng quế ngò gai tiệm lại dọn thêm dĩa xà lách Đà Lạt nữạ Có đời ai lại ăn phở với xà lách dòn dòn, nhưng ăn riết rồi lại nghiện, đi nơi khác không có rồi đâm ra nhơ nhớ.
Phở ngon không chỉ có ở trong mấy cái cửa tiệm đồ sộ. Nếu biết thì trong những con hẻm nhỏ cũng tìm được chỗ ngon. Những tối đi chơi về khuya, trong túi không sẵn nhiều bạc, mời bạn ghé qua cái xe nho nhỏ trong hẻm đầy dân lao động nàỵ Bàn ghế lỏng chỏng nhưng không sao. Thong thả ngồi xuống xin ông chủ một tô đầy đủ tái chín nạm gầu gân sụn sách dòn các cái. Nhiều bánh một tí và bỏ hành trần hành chua vô cho đủ bộ. Khoan đã, bạn quên món đuôi bò nổi tiếng ở đây sao, phải có một dĩa chứ. Xin thêm chén nhỏ đựng tương ớt chứ hầ Vắt tí chanh vào rồi xin mời bạn. Sao, được không? Tuyệt cú mèo phải không?
Tôi nhớ ngày còn ở quê nhà. Những lúc trong người uể oải như muốn nhuốm bịnh cảm cúm, phương pháp ngừa bệnh của tôi là ra quán gọi một tô phở gà dai lòng trứng non. Tô phở dọn lên nóng hổị Vắt chanh vô xong tôi bỏ thêm thật nhiều tiêu cho nóng, nhiều ớt cho cay. Ăn hết tô phở mồ hôi mồ kê ra đầm đìa. Cảm thấy nhẹ người, thêm ly trà nóng và hai viên thuốc Optalidon là sau đó triệu chứng mầm bịnh biến đi mất tiệt.
Sở cũ, trong department có đủ mọi sắc dân chủng tộc. Nhóm tôi gồm một Hồng Kông, hai Đài Loan, một Phi, một Pakistan và một Iran. Chúng tôi thường đi ăn trưa với nhau. Nay món Tàu, mai món Ý, mốt thì món Nhật. Thay đổi luôn cho tới khi tôi dẫn chúng thử món phở của ta. Bạn biết không sau lần thử đó bọn này mê kết món phở. Tôi biết cái tiệm phở đó ăn xoàng lắm, nước dùng nhiều bột ngọt. Có những tiệm khác ngon hơn nhiều nhưng kẹt cái xa chỗ làm thôi. Bọn nó kết đến nỗi mỗi tuần ít nhất phải có một ngày đi ăn phở. Tôi lại là người bàn ra nhiều nhất vì bị dị ứng với bột ngọt. Mà cái tiệm đó bỏ nhiều quá chứ chẳng phải tôi chê gì phở đâu.
Gần đây tôi có đọc chuyện ngắn của một chuyên gia đi công tác tại một nước ở châu Phị Công tác kéo dài gần 3 tháng. Sau một thời gian khá lâu ăn cơm ngoại quốc anh bỗng thèm những món quốc hồn quốc tuý vô kể. Kẹt nỗi chỗ anh đang làm việc không có nhiều quán ăn VN mình. Ngày nghỉ là anh cuống cuồng đi tìm. Một ngày kia nhờ ai đó mách bảo anh tìm ra được cái quán ăn VN duy nhất trong thành phố đó. Chủ quán kiêm đầu bếp là một viên chức ngoại giao của miền Nam đã ở lại đây sau biến cố 30/4/75. Anh mừng rỡ biết bao khi quán dọn ra món phở. Chưa bao giờ tô phở ngon đến như thế cho dù sau đó anh thành thực kể là hàng phở đó nếu mang về đây chắc chắn ông chủ sẽ xập tiệm.
Mà sao người mình cứ khư khư giữ cái bí quyết nấu phở làm chi. Tôi nghĩ nên công bố cho toàn thế giới biết để ai muốn nhào vô làm ăn nghề này thì làm. Có thế phở mới trở nên món ăn quốc tế như hamburger hay pizza chẳng hạn. Thử nghĩ đi đâu trên khắp quả địa cầu này mà cũng gặp tiệm phở hết thì sướng biết mấy, phải không bạn hiền??
Phú Lê
12/94
Bình Trà Nhung Nhớ
Tôi đã biết và thích uống trà từ nhỏ. Tôi uống trà theo ba tôi. Mỗi ngày sau buổi cơm chiều, ba tôi thường ngồi đọc báo và uống trà. Tôi cũng bắt chước, cũng nhấp nháp ly trà con con nhưng là nước dảo lần sau. Mẹ tôi vẫn thường yêu thích hình ảnh đó. Lúc đótôi còn nhỏ lắm nên ký ức không ghi nhớ được nhiều. Tôi chỉ còn có thể nhớ rõ ràng hơn từ năm tôi mười bốn tuổi, lúc mẹ tôi mất. Ba tôi như chìm đắm trong biển sầu. Tôi vẫn thường thấy ông ngôi lặng lẽ hằng giờ trong phòng khách cạnh bàn thờ của mẹ. Có một lần tôi hỏi: " Tại sao lúc nào con cũng thấy ba buồn vậy?". Ba tôi trả lời: "Bao giờ lớn lên con sẽ hiểu, nỗi buồn đôi khi giống như không khí, người ta còn sống còn cần không khí là còn biết buồn".
Sau đó ba tôi trở về quê sống ẩn dật như thế. Ông không thể ở lại căn nhà kỷ niệm đầy hình bóng của mẹ tôi. Tôi vẫn ở lại thành phố với người chị lớn đã lập gia đình và lên học trung học.
Kể từ đó, mỗi mùa nghỉ hè, tôi trở về sống cạnh ba tôi trong căn nhà nhỏ nơi miền quê. Đó là những năm hạnh phúc nhất của đời tôi. Tôi được hòa mình vào cảnh thiên nhiên, đơn sơ mộc mạc của những cánh đồng lúa miền Nam hiền lành, những buổi sáng tinh mơ tiếng người nông dân trò chuyện, gọi nhau ơi ới trên dường đê, tiếng trâu bò rống, tiếng xe lam chạy qua đầu cầu, tiếng gà gáy sáng, khi vần trăng cuối tháng chưa kịp lặn thì anh' bình minh đã vọt bắn lên nhuộm hồng cả bầu trơì xanh biếc. Trong không khí trong lành, những tia nắng ban mai tinh nghịch soi mình đánh thức màn sương đêm còn ngái ngủ trên những vòm cây , ngọn cỏ la đà trên mặt đất.
Một mình, vào buổi sáng sớm, tôi thường chạy ra cánh đồng sau nhà hít thở luồng gío đồng nội tink khiết lẫn trong mùi thơm của lúa. Bầu trơì xanh thẳm ấp ủ lấy tâm hồn thơ dại và tràn đầy mơ mộng của tuổi mới lớn. Những đám mây trôi bồng bềnh một cách vô tư khi gối đầu trên gió, vang xuống tai tôi tiếng thì thầm của những đợt sóng mạ non lao xao dùa nghịch như đám trẻ đang đuổi bắt nhau. Một ngày mới đang bắt đầu, trong sáng và mạnh mẽ biết bao!
Những buổi chiều quê êm ả , cánh đồng sau nhà nhuộm đỏ ối ánh hoàng hôn, khói lam chiều ấp ủ mái tranh, đẹp như một bài thơ. Những đêm trăng sáng óng ánh, bàng bạc trên tàu dừa, bẹ chuối hay sóng sánh thoang thoáng trên mặt ao. Những đêm đầy sao trải giữa nền trời thẳm thăm thường làm tôi liên tưởng đến những chiếc dĩa bay đến từ một hành tinh xa xôi như trong truyện khoa học giả tưởng tôi thường say mê đọc.
Tôi đã có những mùa hè vui vẻ , hồn nhiên, trong tình thương vô bờ bến của ba tôị Ba tôi thường dẫn tôi đi trên đường đê khi hai cha con đi ra ngoài xóm Giêng vớt bèo về thả trên ao nha. Ba tôi thường kể cho tôi nghe về thời thơ ấu của ba, về ông bà nội, về các cô, các chú...
oOo
Thời gian trôi qua nhanh quá, thoáng nháy mắt là đến ngày giỗ thứ mười của ba. Thoáng một cái là tôi đã đến Mỹ hơn sáu năm rồi - những năm tháng sống giữa những người hoàn toàn xa lạ và dững dưng. Tôi thường từ chối hết những lời mời của bạn bè đến dự những cuộc họp mặt gia đình trong những ngày lễ Tạ Ơn, Giáng Sinh hay là Tết Việt Nam. Bởi vì tình cảm gia đình không thể là một sự vay mượn. Tan tiệc. Về. Trơ lại với chích mình, như người diễn viên trả lại vai tuồng cho sân khấu.
Phá lệ một lần, lễ Tạ Ơn vừa qua tôi đến thăm một người bạn quen lâu nhưng chưa hề biết mặt. Lại một lần nữa bước vào một khung cảnh gia đình. Buổi tối nhóm bạn rủ nhau đi khiêu vũ. Tôi ngạc nhiên khi biết người bạn nhảy rất giỏi. Tôi thả hồn vào từng vũ điệu lãng mạn, uyển chuyển. Chúng tôi quay mình theo tiếng nhạc như những cánh buồm đang nương gió để ra khơị Khi bắt đầu bản nhạc tên "Buồn", Huỳnh nói với tôi: "Bản này chắc là đúng tâm sự của Thanh ". Tôi cho Huỳnh biết là tôi đang có huyện rất buồn, sự sứt mẻ trong tình cảm anh em của tôi, một xáo trộn rất lớn, chưa đủ thời gian để lắng đọng tâm tư, để kể rõ nguyên do. Rời khỏi vũ trường, chúng tôi đi ăn tối, chợt nhiên tôi thèm được uống trà vô cùng.
Sáng hôm sau, là bữa ăn thân mật trong vòng thân tộc của Huỳnh, một đại gia đình rất trẻ trung, và cởi mở. Cuối cùng tôi cũng tìm được một tách trà. Tôi nói với Huỳnh: "Mười năm rồi Thanh mới uống trà lại, đây là trà nhớ ba của Thanh, một bình trà nhung nhớ". Tôi chọn một góc phòng, ngồi lặng yên với tách trà cỏn con cho đến giọt cuối cùng. Những giọt trà vàng và buồn hiu hắt như ánh đèn đêm, như những kỷ niệm lững lờ trôi trong tiềm thửc. Dòng trà chảy vào lòng bên cạnh dòng máu đơn côi - Hai dòng chảy cạnh nhau nhưng không thể hòa nhập vào nhau được. Trước mặt, Huỳnh và gia đình là hiện thực, là những con người với trái tim và dòng máu đỏ. Còn gia đình của tôi chỉ còn là những giọt nước trà vàng vọt, một chút gì như vị trà đắng trên môi.
Vị đắng của một tách trà không thể đủ cho tôi trong lúc này. Hãy mang đến cho tôi một bình trà - một bình trà nhung nhớ.
Hoài Nam
Tặng cho người bạn quen lâu nhưng mới gặp
Dallas, 11/28/95
Mùa Hè Khó Quên
Tiếng đại pháo bay véo và tiếng nổ ầm ĩ làm nhốn nháo mọi người trong trại gia binh bộ Tổng Tham Mưu. Hôm nay có nhà bị pháo trúng, căn nhà bị nát tan để lại một hố sâu đầy gạch vỡ và gỗ cây chồng chất. May mà gia đình ấy đã kịp thời lánh đi. Ðã nhiều gia đình dắt diú nhau chạy tạm trú đi nơi khác. Nhà tôi bắt đầu hoảng sợ, lo cuốn áo quần và đồ cần thiết để về quê nội tạm lánh.
Quê nội tôi ở vùng ven biển, núi và sóng biển bao chung quanh thị xã, chỉ có một xa lộ duy nhất dẫn ra khỏi thành phố. Thị xã có nhiều đồng ruộng và ao hồ tạo nơi đây một màu xanh tươi và yên tĩnh. Bởi là một thành phố nhỏ, kề cận thủ đô và không có những căn cứ quân sự nên ở đây tránh được cái tai ách của chiến tranh nhưng đôi khi cũng nghe vài tiếng đại pháo lạc nỗ xa xa...
Chúng tôi về đây đã được hơn một tuần và có lẽ sẽ ở cho hết mùa hè hoặc khi đại pháo bớt rơi vào khu gia binh, nhà của chúng tôi. Năm nào cũng thế, tôi được về nội mấy tháng hè để nghĩ mát nên tôi rất quen thuộc thành phố này, ngay cả mấy đứa bạn quê hàng xóm của nội, họ rất dễ thương, chất phát và nhất là họ coi tôi như một vị "đại ca" của tỉnh thành. Mỗi mùa phượng nở tôi về quê mang theo nhiều cái mới lạ của thành thị làm "sáng mắt" đám bạn nhỏ quê nội. Tôi biểu diễn thổi súng trứng cá bằng ống cao su làm tụi nó phục sát đất. Kể cho tụi nó nghe chuyện sạo rằng tôi thâu phục được mấy tên VC con, như trong chuyện "Mơ thành người Quang Trung" của Duyên Anh. Làm bọn nhóc nể tôi hết sức và phong cho tôi là "Nguyên Soái" văn vỏ song toàn.
Chiều nay trời oi bức lạ, tôi cầm quyển truyện của Từ Kế Tường nằm trên võng sau vườn đọc được vài chương thì bắt đầu thiu thiủ ngũ bởi làn gío hiu hiu và bóng mát của tàng cây mít.
- Ê Ðịnh, mày muốn đi bắt cua không?
Cái tiếng oang oang của thằng Tiến làm tôi giật mình tĩnh giấc.
- Cái thằng chó cắn, làm tao bay mất giấc "mộng vàng".
Tiến là tên bạn thân nhất của tôi, nhà hắn ở ngay phía sau hàng dậu đằng sau vườn nhà nội. Vì nhà nó nghèo nên học xong tiểu học hắn phải bỏ học để phụ cha nó cày ruộng "thế trâu", bởi mướn trâu cày tốn tiền nên cha con của nó thay nhau làm "trâu" kéo khi người kia đứng trên mũi cày. Nó khỏe và đen thui như con trâu í nên được bạn bè gọi là "Tiến trâu". Nó to con và hiền lắm lúc nào cũng nhe hai hàng răng trắng toát ra cười. Lần này cũng không ngoại lệ, hắn nham nhỡ cười như "trâu" rống.
- Không có công chúa trong giấc ngũ đâu, "Nguyên Soái" ạ!
- Tao mà tìm "nàng" trong giấc mộng à, trên tỉnh thành có một lô xếp hàng đó mậy.
Hắn lại nhe hàm răng ra "nhát".
- Ðược rồi công tử ạ, tao biết mày con nhà giàu, đẹp trai, học dỦa mà học giỏi chứ lị. Vậy mày giúp tao chuyện này nhé.
Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng cũng ưởng ngực làm ra vẽ "đại ca".
- Chuyện gì nhà ngươi cầu khẩn, hảy nói cho "đại ca" nghe thử xem.
- "Ðại ca" cái cùi bắp - hắn nhỏ giọng lại - tao nhờ mày cua bồ dùm tao thôi.
- Cái... cái gì? Tôi cà lăm khi nghe hai chữ "cua bồ"
- Ai vậy mậy?
- Ði ra đồng bắt cua tao nói mày nghe.
Mặt trời tụt dần sau đỉnh núi để lại những tia nắng vàng yếu ớt, chúng tôi ra bờ ao tít cuối làng đặt mấy cái rọ tre có mấy con cá ương để dụ mấy con cua sông. Giòng sông trong làng chảy từ chân ngọn núi qua thôn và đổ vào ao này trước khi chảy ra biển, dọc theo ao có rất nhiều lục bình và hoa sen. Ðặt xong mấy cái rọ tôi tìm một bóng cây nằm đợi tên Tiến trâu nói chuyện "tình tương tư".
- Ê Tiến! mày muốn cua con Chung Vô Diệm nào vậy?
- Mày không biết đâu. Con bé ở chỗ khác mới đến, nghe đâu cha mẹ nó đã bị lạc đạn chết khi chạy giặc từ Trung vào.
- A! mày lợi dụng con gái đơn côi để dụ dỗ hả.
- Nói bậy, nó đang ở với bà ngoại nó kế bên nhà mày đó.
- Mày nói bà Tư đó hả? Sao tao không có nghe nói bả có con cháu gì cả.
- Tao đâu có biết, chắc ở miền Trung xa quá mà.
- Vậy mày muốn tao làm gì giúp chỡ Ðưa thư dùm mày hả?
- Mày viết thơ dùm tao thôi, mày biết đó tao đâu có biết viết văn thơ đâu.
Tối hôm ấy tôi châm bình trà ngồi hí hoáy thảo một bức thư tình lâm ly "rùng rợn" cho Tiến trâu. Sau khi xé hết nữa quyển tập 50 trang tôi hoàn tất lá thơ tạm gọi là mùi mẫn. Tiến "trâu đen" kiểm duyệt xong gật đầu khen rối rít. Hai đứa chẳng biết làm sao để trao cho cô bé hàng xóm. Tôi mới đề nghị đợi cô bé ra vườn tôi sẽ dùng sáo thổi gọi Tiến sang để đưa lá thư sang bên ấy. Ðợi chờ cả buổi trưa mới thấy một cô bé trong nhà bà Tư ra phơi áo. Tôi lay gọi tên "Trâu đen" dậy chỉ chỉ qua bên ấy.
- Ê! "trâu đen" dzậy mậy, coi công chúa lọ lem của mày xuất hiện kìa.
- Suỵt! mày nói nhỏ thôi, đừng gọi tao là "trâu đen" chứ, cái thằng ó đâm.
- Ồ! xin lỗi nhé "hắc ngưu" đại ca.
Tiến đấm nhẹ tôi một cái, thọc tay vào túi áo tìm lấy lá thư, hắn bối rối không biết làm sao đưa thư sang cho cô bé khi cô bé đang xoay lưng về phía chúng tôi. Cô bé chăm chỉ giũ mấy cái áo đem phơi trên hàng dây không để ý tới tôi và Tiến. Bất chợt Tiến vo tròn lá thư dang tay ném mạnh qua hàng dậu trúng ngay chân cô bé.
- "Cái Nhài" ơi, con phơi xong áo quần chưa?
Bà Tư bước từ trong nhà ra ngoài hiên. Tiến hoảng sợ co giò chạy tuốt ra sau vườn chui qua nhà hắn. Cô bé xoay người xuống nhặc tờ giấy vo tròn bỏ vào túi áo bà ba nhìn sang bên tôi. Tim tôi đập như trống làng, hai chân cứng ngắc như đồng trụ. Tôi muốn bỏ chạy như Tiến nhưng một sức mạnh vô hình nào thu hút tôi không thể nhúc nhích được. Khuôn mặc nhỏ tròn xinh xắn của cô bé với đôi mắt nai to đen long lanh và đôi môi bé nhỏ thấm hồng, hiện ra như một câu chuyện cổ tích, tưởng chừng như một xê dịch nhẹ nhàng sẽ làm biến tan vào giữa không gian. Cô bé cắn môi và mỉm cười, một nụ cười duyên dáng vô ngần....
- Cháu Ðịnh, cháu về nghĩ hè đó hả, chừng nào cháu lên tỉnh thành lại.
- Dạ. Dạ, không lên nữa... Ủa, mà không, khi nào hết pháo kích cháu về.
Tôi trả lời bà Tư xong như tĩnh giấc mộng, chạy vào nhà như chôn giấu tội lỗi của trần gian hệ lụy. Cả tuần tôi không dám ra ngoài hiên ngồi thổi sáo hay nằm đọc truyện dưới tàng cây mít. Tôi thật bối rối lo âu, nhỡ cô bé hiểu "nhầm" cái thư kia là của tôi thì thật là xấu hổ. Cái thằng "trâu đen" thiệt là hại bạn, mấy hôm nay nó phải ra đồng hái lúa nên cũng vất vã không có rảnh rỗi để mà nghĩ chuyện "tình vô duyên" của nó, để tôi đây lãnh đủ cái tội "tầy trời". Sau một tuần "trốn tránh" tôi ở nhà buồn "rớt mồng tơi" nên dạo bộ đến chùa ở xóm vườn làng bên. Càng đi gần đến Niệm Phật Ðường hàng cây sầu đông thêm xum xê, dầy đặc che mát lối đi. Tôi cứ liên tưởng mình là Từ Thức lạc đường đến thiên cảnh và hy vọng sẽ được gặp tiên nữ đẹp tuyệt vời. Tôi đi ngang cổng chùa qua hồ sen có phật bà Quan Âm cầm cành liễu giũ nước cứu rỗi chúng sanh. Tôi ngồi bên bờ hồ nhìn những hoa sen nở đỏ thắm bổng nhớ đến đôi môi đỏ "nào đó". Thật là "tội lỗi", tôi tự kết tội mình, và nhặt viên sỏi nén vào mặt nước để xoá tan đi những ý nghĩ "côn đồ", mà không phải, "mơ hồ" mới đúng. Xin phật bà tha cho tội "bất chính" và phù hộ cho con... gặp được "nàng". Tôi đi sâu vào vườn của chùa dưới hàng cây bồ đề rợp mát. Tôi nhớ mỗi lần về tỉnh thành, tôi thường hái rất nhiều lá bồ đề ngâm nước để lá mục đi chỉ còn lại "xương" và lấy màu nhuộm lên đem ép vào tập vỡ, làm mấy đứa em họ tôi rất thích, chúng thường rủ mấy cô bạn đến để chiêm ngưỡng "nghệ thuật" và đòi "tạm mượn" cất gi Tôi ước gì "cô bé" cũng thích để tôi sẽ tặng cho "nàng".
- Tụi bây ơi, đừng cho nó về. Chặng đường nó lại đi.
Tiếng reo la "vô duyên" ngoài cổng chùa lôi tôi ra khỏi mộng tưởng. Chắc mấy thằng "cao bồi" con kiếm chuyện với ai đây, tốt hết là đi về ngỏ sau chùa, không thôi lại mang vạ lây vào thân. Hôm nay không có Tiến trâu, lại không mang theo "vũ khí" súng trứng cá thì chỉ có nước ốm đòn. Nghĩ thế tôi băng qua hàng bồ đề định "chuồn" ngỏ sau tẩu thoát.
- Ê! bảo nó cởi đồ rồi cho về nghe tụi bây.
Bỗng có tiếng con gái khóc nức nở, và tiếng hét ầm ỉ cùng tiếng cười nham nhỡ của đám con nít nhu côn. Tôi chùng bước muốn quay lưng trở lại nhưng vẫn sợ bị no đòn nên còn do dự. Tôi nhớ hồi ở tiểu học, học công dân, đạo đức, thầy giáo thường dạy phải giúp đỡ kẽ yếu, bây giờ gặp đám "mắc dịch" ăn hiếp con gái tôi thấy thật nhẫn tâm làm ngơ. Tôi hít một hơi dài vào lồng ngực..."lép", cảm thấy can đảm lên và tin tưởng vào chính nghĩa cùng mưu trí của mình. Tôi quyết định quay trở ra cổng chùa. Tôi thấy có bốn tên nhóc con xoay quanh một con bé đang ngồi gục đầu vào đầu gối khóc rưng rức. Chỉ có một tên bự con hơn tôi, còn ba đứa kia cũng khoảng tôi mà thôi. Tên bự con chỉ vào con bé nói:
- "Hoa lài cấm bãi cứt trâu
Cho còn không lấy có đâu anh thèm"
Hai tiếng "hoa lài" như một ngọn lửa đốt nóng sức mạnh và can đảm của tôi "sôi sùng sục". Tôi mạnh dạn bước đến trước tên bự con và ung dung nói với hắn:
- Sao tụi bây ỉ đông đi hiếp đáp một con bé, không biết nhục hay sao?
Cả đám, bốn đứa cười ồ, một cách lố bịch, dễ ghét.
- Ê! có thằng anh "khùng" đòi cứu "con hiểm" nè tụi bây ơi.
- Bộ mày là "chồng" nó sao mà lo dữ dzậy.
- Bắt nó hôn con nhỏ đi rồi cho tụi nó về nghen tụi bây.
- Bộ mày muốn chết chung với con nhỏ sao mà nhiều chuyện.
Tiếng cười, tiếng nói thô tục của đám "du đảng con" làm hai lổ tai tôi nóng rang. Kinh nghiệm mấy chuyện đánh lộn với đám "bụi đời" của Duyên Anh cho tôi biết muốn "dằn mặt" bọn chúng phải hạ tên to con trước. Bất chợt, chẳng nói năng chi tôi đấm một qủa "đấm thôi sơn" hết "mười hai thành công lực" vào mặt thằng to con nhất và còn "đốn" luôn cái chân của nó. Bị tấn công bất ngờ tên to con ngã lăn như cây bị đốn, mặt nó ụp xuống đất dính đầy cát và máu. Không bỏ lở thời cơ tôi "song phi" cho hai tên "tả hữu" hai cước, cả ba đều nhào lăn xuống đất. Tên thứ tư có thời giờ phòng bị nên khi tôi chưa kịp bò dậy đã bị hắn chòm đến ôm lăn dài. Hai tên bị đá khi nãy không đau lắm nên "quạo" lên, chúng nhào đến đánh đấm, đá tôi túi bụi. Con bé hoảng sợ qúa khóc thét lên chạy vào chùa kêu cứu inh ỏi. Còn tôi chỉ thấy "hoa đăng" chập chờn tứ phía, bụi bay mù mịt, mình mảy đau dầm. Có lẽ ba đứa nó đánh tôi đã mỏi tay, mỏi chân nên đứng lên dìu thằng to con đi ra khỏi cổng chùa. Tôi vẫn còn nằm dưới đất "nghĩ mệt" cho đến khi con bé chạy trở ra, mếu máo:
- Chết chửa, anh Ðịnh à, không có ai trong chùa hết. Anh có sao không, anh có cần đi nhà thương không?
Tôi lồm cồm bò dậy, xua tay, mỉm cười méo xệch:
- Không sao đâu, chỉ đau "chút xíu" thôi.
- Ối! trời ơi, miệng anh chảy máu rồi, mắt anh bầm tím, tôi hại anh mất thôi.
Con bé lại thút thít, thì ra là "nàng tiên" trong mộng hàng xóm của tôi, "cái" Nhài lấy khăn tay vội lau máu chảy từ chổ tét trên môi tôi. Tôi có cảm giác đau đớn nhưng thoải mái lạ lùng. Bây giờ tôi mới nhìn kỹ, cô bé thật trắng và hơi xanh xao. "Cái" Nhài bé bỏng và mong manh như một thiên thần hạnh phúc với những giọt nước mắt long lanh, ngậm ngùi như thầm khẽ nói "cám ơn anh hùng của lòng em."
Thế là từ dạo đó, tôi và cô bé hàng xóm trở thành "đôi"... bạn thân, chúng tôi hay rủ nhau đi nhặt rau muốn ao, đi câu cá. Tôi dẫn cô bé ra bờ sông dùng ống cao su thổi trứng cá bắn mấy con cá bóng đem về cho hai bà cháu cô bé kho tiêu. Cô bé rất "thán phục" tài bắn súng trứng cá của tôi làm tôi cũng nỗi hứng ba hoa rằng:
- Mấy tên "lưu manh con" bên xóm vườn mà gặp súng cao su của tôi sẽ bỏ chạy không còn manh giáp.
- Thôi em không muốn anh nhắc chúng nữa. Hôm ấy nhỡ anh có sao chắc em...
Tiếng cô bé nhỏ đi làm tôi muốn nghe mà nghe không được câu chót cô bé nói gì.
- Hôm ấy tại tôi đói, nên nhờ chúng cho ăn "no đòn" chơi, chớ đâu có phải tại "cái" Nhài hại tôi.
Cô bé ngúyt dài tôi, giận dỗi nói:
- Ðã bảo anh đừng gọi em là "cái" Nhài mà. Anh mà còn nói nữa tôi không nói chuyện với anh xem.
Tôi cười hề hề, đấu dịu:
- Tại anh nghe ngoại em nói thế, chứ em muốn anh gọi sao cơ?
- Vì ngày xưa ngoại em ở Bắc, cha me em lại vào Trung, bây giờ em ở Nam, anh gọi thế kỳ chết.
- Như vậy là em là người "tứ lung tung" rồi. Ủa, là người tứ xứ mới đúng. Vậy anh dùng cả tiếng mọi miền mà gọi em nhé, hay là "bé con" hay là "bé Lài".
- "Bé con" nghe nhỏng nhẻo qúa, gọi bé Lài cũng được. À, anh viết thư hay lắm, hay anh dạy em đi. Em... vẫn còn giữ kỹ lá thư của anh cho dù nó nhầu nát.
"Tình"... bạn chúng tôi bắt đầu bằng những ánh mắt, bằng những bước chân cuống quít trên con đường ngập nắng dẫn vào làng. Ôi, hạnh phúc đơn giản nhưng thật nồng say trong khoảng khắc bất chợt. Chúng tôi ngồi bên bờ sông nhìn giòng nước chảy về đâu để thoáng thấy trong đôi mắt nhung của cô bé một cái gì đó mơ hồ nhớ thương ngự trị. Cô bé xoay hẳn người về phía giòng sông, ngọn gió thổi tóc cô bé dài bay bay man dại. Trông cô bé ngây ngô, hiền lành yếu đuối như những mãnh rong rêu.
- Bé Lài nghĩ gì vậy?
- Về những gì đã bay cao.
Tôi nhìn bé Lài xót xa, thương mến, ước gì mình có thể chia sẽ được nỗi ưu tự Buổi chiều hôm nay trời đẹp và buồn như những lần cô bé khóc. Cô bé không còn có vẻ liếng thoáng như mọi ngày. Tôi nhìn cô bé ái ngại cùng những giọt nước mắt long lanh lăn dài trên má.
- Bé Lài! đừng nghĩ viễn vong mà buồn nữa em ạ! Vì chúng ta sinh ra trong quê hương và thế hệ của khói lửa tàn khốc! Những thảm cảnh cuộc đời sẽ xảy ra bất chợt. Hãy cố quên đi sầu đau của quá khứ. Hãy nhìn vào những thảm cảnh xót xa hơn của quê hương để biết mình vẫn còn có hạnh phúc.
Tôi kể cho bé Lài nghe chuyện lịch sử mà tôi học được năm vừa qua, kể về cuộc đời gian truân của những đồng bào ta đã phải chứng kiến cái nạn đói vô cùng bi thảm của dân tộc... Trận đói tháng ba năm Ất Dậu 1945 đã làm chết gần 1/20 dân số của Việt Nam. Xác chết nằm lăn lóc đầy đường. Xác chết nổi lềnh bềnh trên ao hồ, sông ngòi. Xác chết nằm thối tha trong bờ tre, bụi chuối. Chỗ nào cũng thấy xác chết. Nhất là ở những mái hiên đình làng và những lều hoang, quán chợ. Hình ảnh của người mẹ và hai người con nằm chết co dúm trong ngôi miếu vắng bên đường. Người mẹ tuổi chừng ngoài ba mươi, với bộ quần áo bằng bao bố đã vá chằng vá đụp. Mắt bà lõm sâu, mở trừng trừng, tóc bết khô phủ trùm lên một bên má hóp. Trong vòng tay ôm cứng một đứa bé trai dường như mới biết bò. Em bé mặc một cái áo vá màu nâu, không có quần, nằm gọn trong lòng, úp vào ngực người mẹ. Ðầu em trọc lóc như một cái sọ khộ Cái đít teo vòm với đôi chân chỉ còn có xương và da. Bên cạnh là một em bé gái chừng năm hay sáu tuổi chết ở tư thế nằm sấp. Một chân co lên tới ngang hông, tay trái để mặt gối lên và tay phải đưa cao lên khỏi đầu, bàn tay bấu chặt vào mặt đất. Quần áo em tả tơi, để hở nhiều mảng thịt thâm đen. Ba mẹ con nằm đây có lẽ đã hơi lâu nên ruồi nhặng đang bắt đầu tìm đến... Người chết nhiều nhất lại là người ở các tỉnh đồng bằng như Thái Bình, Hải Dương, Nam Ðịnh... Những người nông dân suốt đời chân lấm tay bùn, vật lộn với thiên nhiên để làm ra hạt gạo, củ khoai nuôi sống mọi người, thì khi nạn đói xẩy ra, họ lại đi tiên phong trong cái chết, thật là nỗi bất công tàn nhẫn.
- Anh Ðịnh ạ! tại sao quê hương ta thống khổ quá. Chiến tranh khói lửa không nguôi, để cha con vợ chồng cách biệt. - Bé Lài lại thút thít - Như em đây giờ chỉ lẻ loi một mình, ngoại già rồi, mai đây chỉ còn lại bé thôi, nhỡ em có sao thì... "khi em chết ai là người xây nấm mộ, trước quan tài ai đổ lệ cho em?"
Tôi vội lấy ngón tay chặn lên đôi môi hồng cô bé:
- Bé Lài lại nói gở rồi nữa nhé. Anh lúc nào cũng xem em như là "em" của anh rồi đó. Lúc nào bé Lài cũng có anh "chia sớt" trên đường đời mà.
Cô bé chớp chớp đôi mắt tròn ướt át nhìn tôi cảm kích và xiết chặt tay tôi:
- Bé lúc nào cũng sẽ mãi là..."em"... của anh Ðịnh.
Hai chúng tôi cùng mỉm cười hạnh phúc. Tia nắng cuối cùng yếu ớt rớt mất sau rặng tre. Chúng tôi đã quên đi những buồn đau chợt đến như tuổi trẻ sớm quên đi phiền muộn của cuộc đời. Hai chúng tôi nắm tay nhau tung tăng dọc theo bờ sông trở về nhấ Hàng dây tóc tiên mịn màng mọc quấn quít bên bụi tre làng, những cánh hoa cúc dại men theo sông, ôi quê hương tôi một nét đẹp diệu hiền. Tôi nhặt một cành cúc dại và mấy sợi tóc tiên để lên tóc cô bê Trang điểm cho "em" tôi một hương sắc của quê hương.
- Sao anh Ðịnh biết bé thích dây tóc tiên và hoa cúc dại.
Tôi cười liếng thoáng:
- "Chúng ta" ý hợp "tâm" đầu mà.
- Chứ không phải anh chê hoa "Lài"... không sắc, đơn sơ?
- Ồ! Không có đâu, " Hoa Lài trong trắng ngát hương. Tôi nhìn, tôi ngắm... tôi... thương... cái 'Nhài."
Cô bé đỏ mặt, liếc nhìn tôi trìu mến rồi bỏ chạy nhanh về nhà trước.
Ðã lâu rồi tôi không gặp Tiến trâu vì đến mùa gặt nên hắn và gia đình bận rộn việc đồng án. Vã lại từ khi chuyện xảy ra ở chùa làm Tiến hơi buồn khi thấy chúng tôi thân nhau hơn, hắn có vẽ tránh mặt tôi khi mỗi chiều hắn đi làm về chẳng chịu sang chơi với tôi. Tôi cũng cảm thấy ái ngại quá khi biết Tiến đã có lần tỏ vẻ thích cô bé Lài. Chiều nay tôi gặp Tiến trên đường về, vì ruộng lúa của nhà nó bên kia sông.
- Tiến ơi! chờ tao với mậy, sao dạo nầy mầy không sang tao chơi?
Tiến buồn buồn trả lời có vẽ hơi trách móc:
- Tao bận đi "cày" có đâu thời giờ rảnh rổi, vả lại mày cũng "bận" mà.
- Mày thiệt tình mờ, mày bận thôi chớ tao đâu có bận gì đâu.
- Mày bận dẫn "con bé" đi chơi đó. Thiệt là "mê sắc bỏ bạn hiền".
Tôi đấm nhẹ và choàng vào vai hắn:
- Ê! đừng có nhỏ nhặc chứ, mày biết mà, chuyện "ấy" đâu có miễn cưỡng được, phải không? Vã lại tao có giúp mày mờ, chỉ tại "tình mày mà duyên tao thôi".
Tiến trâu đá nhẹ vào mông tôi:
- "Tình mày duyên tao" hả, chỉ tại nhà mày giàu thôi. Nhưng thôi số mệnh đã định sẵn, tao sẽ "tu" không bị đường đời "hỷ, nộ, ái, ố" như mày.
Tôi giả vờ chấp tay trước ngực, và cuối đầu chào hắn:
- Lành thay, lành thay, chúc mừng "đại ngưu", thoát vòng tục "tỉu".
Tiếng cười chúng tôi lan vội trên con đường làng, làm những chú chim giật mình thức giấc bay vội lên cao.
Tôi đã về quê nội gần ba tháng, mùa tựu trường sắp đến. Pháo kích cũng bớt rơi vào tỉnh thành. Hoa phượng đã rơi gần hết, đỏ ngập cả lối đi. Mọi năm tôi rất náo nức trở về trường lớp sau ba tháng hè dài nóng bức, nhưng năm nay tôi thật luyến tiếc nơi đây. Tại sao mùa hè năm nay ngắn thễ Tại sao tôi không ở đây mà phải về tỉnh thành. Rất nhiều điều tại sao mà tôi không thể trả lời và quyết định được. Bé Lài không biết tôi sẽ trở về tỉnh thành để nhập học nên vẫn hồn nhiên, liú lo như một con chim con. Hôm nay tôi rủ cô bé đi bắt cua để có cơ hội nói cho cô bé biết lặ"mùa hè đã sắp hết".
- Bé Lài có bao giờ nghĩ rồi em sẽ đi học lại không?
- Em đâu cần đi học, em là con gái mà, có anh dạy bé đủ rồi.
- Nhưng mà anh đâu có dạy bé tất cả được chứ.
- Em đâu cần biết gì hơn... ngoài... anh đâu.
- Nhưng mà anh cần phải học thêm nhiều lắm lắm đó.
- Thì anh đến trường học đi, em đi bắt cua về nấu canh để sẳng anh ăn.
- Nhưng mà anh phải....lên tỉnh học lận cợ
Cô bé bỗng im lặng, cặm cuội đặt mấy cái rọ tre xuống sông. Tôi nhìn thoáng lo âu. Tôi đến bên dìu cô bé đứng lên. Những giọt nước mắt long lanh chực trào ra khóe mắt. Tôi bối rối an ủi vớt vác.
- Ðể anh về bàn với má và nội anh xem, anh có thể học trường thị xã mà.
- Bé cũng biết rồi sẽ có ngày anh Ðịnh xa em, nhưng bé chỉ muốn dối lòng để quên đi, không ngờ nó đến chóng thế.
- Bé Lài ạ! - tôi nắm chặt đôi vai nhỏ rung rung - anh cố gắng thuyết phục má và nội để anh học xong trung học ở đây nhe.
Im lặng, cô bé chỉ im lặng, bé Lài buồn bước lững thửng lên ngọn đồi hoang nhìn về xa xăm. Tôi xót xa, buồn bà. Ôi, em thật lẽ loi và yếu đuối. Tôi muốn làm một cái gì để bé vui và quên đi sầu muộn tương lai. Tôi lội xuống sông tìm rọ cá lóc của Tiến trâu. Tôi bắt con cá lóc lấy mang cá vắt máu vào tay. Tôi chạy ra bờ sông nằm lăn, hét lớn:
- Bé ơi! Cua cắn đứt ngón tay anh rồi. Ối chao, đau quá đi.
Bé Lài hoảng hốt, chạy nhanh đến, ôm chầm lấy bàn tay tôi khóc thét.
- Trời ơi, anh có sao không? Bớ người ta cứu anh tôi.
Tôi cười sặc, bịt miệng cô bé, nhúng tay dính máu vào sông rửa sạch đi rồi đưa cho bé Lài xem. Cô bé giận dỗi bỏ chạy lên ngọn đồi. Một tiếng véo bay ngang tiếp theo một tiếng nổ thật to vang lên làm rung chuyển cả ngọn đồi. Tôi bàng hoàng, hoảng sợ, hét lên "bé Lài", rồi tung chân chạy lên đồi cao đầy khói, bụi. Trong đám cát bụi và thuốc súng, tôi thấy một thân hình nhỏ bé sập ngả. Tôi chạy đến ôm xốc bé Lài lên gào thét "bé Lài ơi, bé Lài ơi, trả lời anh đi...". Tiếng tôi gọi chơi vơi tan theo những cát bụi của không gian...
Tôi đã được "ở" lại đây với bé Lài. Vâng, chiến tranh đã tạo cho chúng tôi quen nhau, nhưng chiến tranh cũng đã bắt chúng tôi vĩnh viễn xa nhau. Không, tôi nhất định không bỏ lại bé Lài trong lòng đất lạnh. Tôi đã thuyết phục được nội và má cho tôi ở lại đợi chờ nơi yên nghĩ của bé Lài mọc đầy dây tóc tiên, và hoa cúc dại. Tôi ngồi đây vuốt hàng dây tóc tiên như tựa tóc em dài ngây dại. Hôn nụ cúc vàng như đôi mắt nai tơ. Tôi khóc cho em đây, khóc cho cuộc đời em qúa ngắn ngủi, khóc cho hạnh phúc trôi qua mau. Tôi cứ nghĩ cuộc đời là những bình yên cho mơ ước nhưng đâu ngờ "hạnh phúc như bàn tay, có trăm nghìn kẻ hở". Tiến đặt tay lên vai tôi làm tôi sực tĩnh. Trời đã sập tối, sao đêm lấp lánh trên cao. Không biết sẽ còn có bao nhiêu vì sao sẽ tắt cho quê hương chiến tranh.
Nguyễn Ðình Thái