vhnt, số 72
1 October 1995
Trong số này:
+ thư tín
+ 1 - Tình Yêu Thời Chiến, thơ Tien Doan.
+ 2 - Thương Nhớ 12 (tiếp), tùy bút Vũ Bằng
+ 3 - Mang Xuống Tuyền Ðài, truyện ngắn Bùi Thanh Liêm
Chào các bạn,
Chị Lan bận công chuyện đi vắng vài ngày nên tôi phải ra tay cho vhnt không bị gián đoạn. Khi bàn giao, chị Lan dặn dò tôi rất cẩn thận, chắt sợ tính tôi cẩu thả làm cho vhnt không được như ý chị muốn. Dù sao đây cũng chỉ là tình trạng tạm thời thôi!
Trong số 71, cô Christina Tran có hỏi về vấn đề bài chọn đăng cho vhnt như thế nào, như thơ cần có vần, điệu, đúng luật hay không. Tôi xin tạm trả lời như sau: về thơ, xin Christina download và đọc vhnt số 37, có một bài bàn luận về thơ của Đới Vọng Thư. Chủ trương của chúng tôi là cố gắng đem lại cho các bạn những bài vở hay, có giá trị. Từ trước đến nay, hầu hết những bài gởi cho vhnt đều đã đư ợc đăng, phẩm chất các bài vở gởi cho vhnt thật ra cao hơn sự dự liệu của chúng tôi. Nhóm chủ trương tin tưởng một ngày trong tương lai, vhnt sẽ sánh vai ngang hàng với tất cả những tạp chí văn chương ở hải ngoại.
Viet/vhnt
Tình Yêu Thời Chiến
Anh,
Người chiến-binh,
Vì nước quên mình.
Yêu đồng-đội,
Và kiếp sống trôi-nổi.
Em,
Người hiền-phụ
Tận-tụy nuôi con
No ấm vuông tròn
Chờ chồng mỏi-mòn
Hết cả đời son.
* * *
Anh:
Hạnh-phúc mọi bề
Có con xinh xinh
Người vợ chung-tình
Nắng mưa chẳng kể
Mong chờ ngày anh về
Em:
Từ độ chiến-tranh về quê mình
Anh nổi trôi, cuộc sống chiến-binh
Em quê cũ tảo-tần buôn-bán
Chạy ngược xuôi vất-vả mưu sinh
Lo cho con vuông tròn no ấm
Mai thành người, cha mẹ hiển-vinh
Cầu cho chồng thoát mọi kiếp-tinh
Sớm trở về, ngày nước thanh-bình
NTP
28Sep95
Thương Nhớ 12: Tháng Chín, Gạo Mới Chim Ngói
(tiếp theo)
Bây giờ, ngồi ở đây nhiều khi trông mưa nhớ nhà, tôi ưa nhớ đến những ngày có bóng rươi ở Bắc, cha mẹ anh em quay quần dưới một ngọn đèn dầu, chúng tôi tranh nhau vặt lông chim ngói rồi thả xuống đất dâm chân, đập tay để cho nó trốn lủi vào những gầm giường, xó tủ.
Chính ra con chim ngói trông cũng không đẹp mấy: từa tựa như bồ câu,chim gáy, nhưng nhỏ hơn và tròn mình hơn. Lông chim ngói màu nâu, điểm những chấm đen đen, mà đuôi thường cụt. Vặt lông rồi, nó để lộ ra một làn da xam xám, thỉnh thoảng có lớp máu rướm ra vì người nhổ lông bất cẩn. Có lẽ vì nó sợ, và có lẽ vì đau, chim chúi đầu xuống đi bập bà bập bỗng, trông như một đứa trẻ lột trần vừa bị đòn đau, tìm chỗ trốn.
Tội nghiệp cho kiếp chim, ai thấy mà không aí ngại nhưng triết lý là một chuyện mà thực tế lại là chuyện khác: chỉ một lát nữa thôi, mổ ruột bỏ lòng đi rồi nhồi hạt sen, ý dĩ, miến, thịt ba chỉ, mộc nhĩ, nấm hương, cho vào nồi hầm lên, anh sẽ thấy rằng các nhà đạo đức tu hành khuyến cáo các đệ tử ăn chay trường, không sát sinh, quả là dại, dại quá, dại không để đâu cho hết. Ðáo để là cái giống chim này, sao mà thịt nó thơm, mà lại mềm đến thế, mền đến cả cái xương, bồ câu, chim cu sao có thể đem ra mà ví được. Chết, đem nó làm món gì cũng ngon chết người đi: Xáo với măng, lá lốt như kiểu xáo vịt đã hay, thái ra từng miếng nhỏ hấp với rau cải nõn lại càng ngon tệ, nhưng ngon vượt bực là đồ một chõ xôi "nếp cái mới" rồi úp một hai con chim ngói lên trên để cho mỡ nó nhuyễn vào xôi rồi lấy ra ăn thật nóng, nhất định là cả thế giới này không có một món ăn nào sánh nổi!
Ấy chính là chim ngói ngon và quí một cách rùng rợn như thế cho đến mùa mà ăn ngay thì đắc tội với trời: không được!
Vì thế tất cả những gia đình có lễ giáo mỗi khi đến mùa chim ngói đều phải sửa lễ cúng trời đất, tổ tiên cùng với gạo mới vì cuối tháng Tám đã gặt luá mới, sang tháng Chín gạo
mới đã bắt đầu đem bán ở khắp nhà quê kẻ chợ.
Ở đây, ngon nhất thì Rẻ Cánh, Nanh Chồn, Nàng Hương... thổi một nồi cơm lên thơm ngát cả nhà kể ra cũng đã là cao cấp, nhưng mà đến cái gạo Tám Thơm ở Bắc thì phải nói là thơm " điếc mũi", ghế nồi cơm lên, không những cả nhà thấy ngào ngạt hương thơm mà cả mấy nhà hàng xóm cũng bắt thèm rỏ giãi! Gạo Tám nổi tiếng nhất làở Bắc Ninh, nhưng Bắc Ninh lại có một làng riêng sản xuất một thứ Tám thơm "thượng thặng": làng Cói. Gạo Tám Cói thổi lên ăn với chim ngói hầm đem cúng thiên địa quỷ thần và tiến vua quả thực là đúng chỗ, y như thưởng trống cô đầu đến đoạn "dịp phách phách" mà đánh "bóc bóc" hai tiéng ăn nhịp với nhau chan chát, chịu sao cho nổi?
Nhưng người đẹp như Tây Thi đau bụng nhăn mặt lại mà vẫn cứ đẹp như thường thì gạo Tám Thơm cứ gì phải ăn với những món thực quí, thật lạ mới ngon? Này, thổi một nồi cơm gạo Tám Cói cho thật vừa lửa, ghế cho thật vừa tay rồi xới ra một chén đưa lên, nhìn cái hạt cơm trong muốt, trắng tinh, ong óng như con ong, có khói bốc lên thơm ngào ngạt, có khi anh chỉ rưới lên một tí nước mắm Ô Long hay một hai thìa nước thịt rim ăn cũng đã thấy ngon quá thể rồi; nhưng nếu người nội trợ đi chợ Bằng thấy thịt thăn ngon mà rẻ, lại mua về làm mấy lạng ruốc bông để đấy, lấy ra ăn với cơm Tám vừa chín tới thì... nhất định tối hôm ấy phải yêu thương người vợ hơn một chút. Người chồng mới nói rằng:
"Cơm hôm nay thổi khéo quâ Giá em thổi cơm thi, nhất định anh phải chấm em giải nhất".
Ấy đó, người đàn ông thường có những cái bực mình lặt vặt như thế đấy: tưởng nói như thế thì lòng tự ái của vợ mình căng lên, không ngờ chính anh nịnh vợ lại đâm ra "hố" vì nịnh không đúng chỗ.
"Anh nói em lại nhớ. Phải rồi, vào cái cữ này đây, ở Bắc Ninh ngày trước, có cái tục thổi cơm thi nhưng không phải ở Thuận Thành mà ở Thị Cầụ Con trai bốn giáp Ðông, Bắc, Giữa, Già, từ mười tám đến hai mươi được cử đi rước thần - anh có nhớ tháng Tám, tháng Chín là hội cha mà tháng Hai tháng Ba là hội mẹ không - và đến hôm rã đám thì được phép dự cuộc thổi cơm thi.
"Nhưng thổi cơm thi có tiếng là làng Tích Sơn, huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh Yên. Khác hẵn làng Thị Cầu, làng Tích Sơn lại có tục thổi cơm thi vào ngày hội mở ngày mồng ba tháng kiến dần. Trai làng từ mười tám đến bốn mươi phải thổi mỗi người một nồi cơm mang đến trình các cụ ở đình. Sau ban giám khảo xét nét rất nghiêm minh, nồi nào thổi khéo nhất thì để thờ, các nồi khác để các cụ thưởng thức rồi còn bao nhiêu để mời khách thập phương nếm thử.
"Nhưng ở Thị Cầu, cũng như ở Tích Sơn, cơm thổi dự thi mà được trúngcách không tơi lên như thứ cơm gạo mới em thổi cúng thánh ngày hôm nay đâu, anh à."
"Lúc em còn nhỏ, em đã đi xem nhiều cuộc thổi cơm thi rồi nên em cũng biết ít nhiều. Cơm dự thi mà được coi là khéo phải hội hai điều kiện: một là cơm phải mịn như cơm nắm, đổ ở nồi ra có thể lấy dao cắt thành miếng một mà cấm không có cháy hay có vỏ bao lấy nắm cơm; hai là cái nồi đất thổi cơm không được bén lửa, nấu cơm rồi mà cái trôn nồi vẫn còn nguyên.
"Ăn một miếng cơm như thế, nó cứ lừ đi trong cuống họng, vừa thơm vừa man mát mùi nhựa gạọ Nhưng chỉ ăn chơi bời một hai bữa là cùng, chớ ăn hàng ngày thì phải thổi cho ráo nước, cơm cứ tơi lên, không khô, không nát thì mới gọi là thổi khéo".
Khéo chống chế, anh chồng nói:
"À, ra cơm thổi thì nó như thế hay sao? Nào ai biết. Chỉ biết đọc truyện "Phạm Công Cúc Hoa" thấy nói đến thổi cơm thi thì mình cũng nói thế, chớ biết đâu thổi cơm thi khác thổi cơm thường. Nhưng mà cơm thi hay cơm thường thì em vẫn cứ là nhất, anh tự lập lấy một ban giám khảo, và chấm như thế đấy".
Người vợ cười và đêm ấy cũng thấy yêu thương người chồng mặn mà hơn đêm trước nhiều. Gió bấc thổi về gầ sáng lạnh hơn, buồn hơn. Cả hai người lúc ấy cùng cảm thấy sống đủ đôi ấm qúa, mà cái tháng Chín ở Bắc qủa là tháng lý tưởng của bùi ân ngọt ái. Nhưng càng bùi, càng ngọt bao nhiêu thì cũng lại càng thương biết mấy mươi những người chinh phụ trăng tủi, hoa sầu không biết than cùng ai thở cùng ai, không biết chồng đi trận còn sống hay đã chết, đành là gửi hồn mộng đến Ngư Dương để gặp bạn chiếu chăn ngày cũ:
Bên thành rặng liễu thướt tha,
Dâu xanh um tốt tỏa ra đầy đồng.
Vẩn vơ mang gỉo về không,
Ngư Dương còn nhớ giấc nồng đêm qua.
Bây giờ, nằm ở miền Nam, nhớ về phương Bắc, người chồng không ngờ đâu mình lại cũng là người đi hái dâu chỉ thực sống khi còn trong mộng, mà mộng tỉnh rồi thì lại tiếc
mộng mấy mươi!
Hôm xưa đương lúc nửa đêm,
Gặp nhau trên gối đã tìm trog mợ
Nỗi lòng vừa kể hết;
Mặt đẹp tựa hoa xưa,
Tha thướt đôi mày liễú
Nửa mừng nửa ngẩn ngơ,
Muốn gần nhau vẫn đứng trơ,
Ðau lòng nghĩ tiếc giấc mơ vừa tàn (1)
Tiếc không biết bao nhiêu những đêm lạnh nằm chung một chăn đơn với vợ ăn hạt dẻ, nói đôi ba câu chuyện buồn vui thế sự; tiếc những buổi chiều mưa rươi hai đứa dắt nhau đi trên những con đường vắng ẩm ướt có hoa sấu rụng thơm lên trong không khí một muì hương dìu dịu, man mác mà lại chua chua; tiếc những ngày tản cư cùng đứng trên con đê sông Máng với con trai, nhìn về phía có đèn sáng ở đô thành ngâm bài thơ đi đầy.
Nằm ở đây bây giờ, người chồng bỗng nhiên thấy tủi thân vì cảm thấy chìa khoá để mở cái tháp vàng đã mất rồi, ngày vui không hy vọng còn trở lại, cũng như người tỳ bà nữ bến Tầm Dương không còn hy vọng được thấy những ngày ở Hà Mô có không biết bao nhiêu chàng trẻ đem the thắm để mua lấy tiếng đàn huyền diệu.
Thì ra cái thân mình ở đây cũng chẳng hơn gì người tỳ bà nữ lúc về gìa, lấy người lái buôn chè, một đêm ngồi thuyền gảy mấy thiên ai oán cho Bạch Cư Dị nghe lúc tiễn bạn ở sông Bồn, vào khi ông bị biếm ra làm chức Tư Mã ở quận Cửu Giang hẻo lánh:
Từ xa kinh khuyết bấy lâu,
Tầm Dương đất chích gối sầu đêm mai,
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,
Tai chẳng nghe đờn địch cả năm;
Sông Bồn gần chốn cát lầm,
Lau gìa trút võ nẩy mầm quanh hiên,
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối,
Cuốc kêu sầu vượn nói nỉ non,
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn,
Lần lần tay chuốc chén son riêng ngừng.
Há chẳng có ca rừng địch nội,
Giọng líu lô buồn nỗi khó nghe,
Tiếng tỳ bỗng lắng canh khuya,
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai...
Nghe thấy tiếng đàn của người tỳ bà nữ, khắp tiệc hoa đều tuôn nước lệ rơi, nhưng đến lúc chiếu cuốn rượu tàn, trở lại chỉ còn chiếc thuyền trăng rãi nước trôi, người tỳ bà nữ nằm một mình, nghĩ một mình, lại chỉ còn biết vui với cảnh, với người trong mộng; ấy vậy mà ngay ở trong mộng cũng buồn, tỉnh dậy mà vẫn còn thấy nước mắt đầm đìa mặt
gối.
Người chồng bây giờ ở đây cũng ôm đàn đi gảy thuê cho thiên hạ giải sầu, nhưng đêm khuya về nằm một mình ở căn nhà gầy, y không khóc như người tỳ bà nữ, nhưng nâng chén rượu lên uống một mình, ngâm khẽ mấy câu thơ cũ:
Hơi may heo hắt từ tây,
Giang Nam phong vị độ rày ra sao ?
Năn nỉ với hai sao bến Hán,
Giải trường giang giới hạn đông tây,
Hai sao soi biết nạn này,
Xin cho thất tịch cùng ngày đoàn viên.
Vầng trăng trước về miền vân thủy
Soi những người thiên lý tương,
Ði qua vườn cũ lơ thơ,
Thử xem án cũ cầm như thế nào ?
Trông đàn én bay cao phấp phới,
Xịch then song gọi vói truóc mành.
Tiện đây nhờ gởi chút tình,
Chờ xuân nhắn gửi chim xanh còn chày!
Tình nam bắc thâu ngày qua tháng,
Sầu biệt ly vơi sáng đầy chiều,
Nỗi riêng nhớ ít tưởng nhiều,
Cậy ai về nẻo Thước Kiều hỏi tin...
Ðến nửa đêm, thức dậy, cái giường tre ở ngoài vườn có sương mù bốc lên như khóị Ngửng đầu nhìn thấy có những cành hoa trăng nhỏ rụng lả tả trên chiếu lạnh. Người chồng cúi đầu nghĩ lại giấc mộng vừa qua, thấy mình về phương Bắc cùng vợ đi trên con đường xưa cũ, con đường hò hẹn khi mới quen nhau, hai đứa cùng lấy một tấm lá che đầu để tránh mưa rươi mà chân thì giẫm lên những cánh hoa sấu rụng cũng nhỏ, cũng trắng như những cánh hoa rụng đêm nay trên chiếc giường trống trải.
Nhưng hoa này đâu phải là hoa sấu rụng thơm lên trong đêm xanh một mùi hương dìu dịu, man mác, chua chua! Mà đó chỉ là hoa cây trứng cá lúc rụng cũng duyên dáng vô vàn, nhưng chẳng có hương thơm gì hết!
Vũ Bằng
(1) Những bài thơ chép lại ở đây chỉ dựa theo trí nhớ Nếu có câu nào lầm lẫn, và nếu không ghi chú được tên các tác giả và dịch giả, xin vui lòng tha lỗi.
LTG:
Trong phần giới thiệu tác phẩm của Nguyên Sa, nhà văn Mai Thảo có viết: "Ðây là câu chuyện có thật trăm phần trăm, vì nội dung cốt truyện hoàn toàn dựa theo sự tưởng tượng."
"Hả!" Ðó là phản ứng của tôi, sau khi đọc qua câu giới thiệu này. Nếu là người nào khác viết như vậy thì có lẽ sẽ bị vả ngay vào mặt, nhưng những lời phê bình này hơi nặng ký, vì xuất phát từ một nhà văn tên tuổi. Văn chương hải ngoại sao làm khó người đọc quá! Cũng như trong hội họa, trên mấy bức tranh trừu tượng, với những nét nguyệch ngoạc như của con nít lên ba, nếu không có chữ ký của Picasso, Van Gogh hay Monet, thì người ta đã vứt vào sọt rác; thế mà không hiểu tại sao thiên hạ lại giành nhau mua những bức tranh này với giá bạc triệu. Bản thân người viết đã học qua nhiều lớp phân tích hội họa, kể cả hội họa trường phái trừu tượng, nhưng nếu có ai hỏi có hiểu thấu đáo loại tranh này không, thì câu trả lời chắc chắn sẽ là không. Hội họa cận đại sao mà làm khó người xem quá! Nhiều khi người viết còn nghi ngờ là chưa chắc mấy ông họa sĩ (họa sĩ quá cố đúng hơn) này có hiểu mấy ổng đang vẽ cái gì!
Sở dĩ nãy giờ phải nói vòng vo tam quốc là vì BTL tôi sắp kể quý vị nghe một câu chuyện với cốt truyện hoàn toàn dựa theo sự thật, còn chuyện nghe có vẻ thật hay không thì tùy bạn đọc nhận xét.
BTL
Mang Xuống Tuyền Đài
Ông Harrison là người nổi tiếng keo kiệt, bủn xỉn nhất trong thành phố nơi tôi đang sống. Ðành rằng đời sống bên Mỹ này khác hẳn Việt Nam, rằng "đèn nhà ai nấy rạng", rằng không có tình hàng xóm. Nhưng bởi vì cái thành phố nhà quê miền Nam này có bé xíu, "đi dăm ba bước đã về chốn cũ",nên chuyện gì ai cũng biết, và chuyện ông Harrison hà tiện ở đây ai mà không biết.
Thét rồi cái tên "Harrison" trở thành một tính từ mà người dân địa phương quanh đây dùng để ám chỉ những người kẹo kéo không ra, như: "Này, sao chú mày 'Harrison' quá vậy". Nếu không phải là người địa phương thì chắc không hiểu câu này có nghĩa gì, giống như trường hợp những người rời Việt Nam lâu năm, lúc đầu nghe người mới đến nói: "Ðồ 'Trùm Xỏ" thì cũng chẳng hiểu họ muốn nói gì.
Người nghèo mà hà tiện thì cũng không đáng nói, đằng này ông Harrison thuộc loại giàu sụ, tứ đố đổ vách. Thiên hạ bảo nhau vậy, có kẻ còn dám minh xác tin này có thật, dựa theo lời kể lại của nhân viên ngân hàng nơi gia đình Harrison mở chương mục và từ nhân viên khai thuế lợi tức hàng năm cho gia đình lão. Không rõ hư thực ra sao, nhưng nhìn bề ngoài người ta không thể phân biệt được lão Harrison và tên lãng tữ da đen, tứ cố vô thân sống lang thang đầu đường xó chợ. Quanh năm suốt tháng người ta chỉ thấy lão xuất hiện với một bộ đồ jean cũ mèm. Ở Mỹ này muốn phân biệt giàu nghèo không phải chuyện dễ, chớ có thấy người ta nhà cao cửa rộng, chạy BMW là kết luận họ giàu. Tôi có quen người bạn, hai vợ chồng làm assembler, cũng bày đặt tậu nhà mới, xe mới như ai, nhưng hễ gặp là nghe vợ chồng nó than nợ nần ngập đầu, chiếc xe mới mười năm sau mới dứt nợ, căn nhà thì gần nửa thế kỷ nữa mới được làm chủ, còn đồ đạc bàn ghế tủ giường trong nhà toàn là mua chịu. Nhìn bề ngoài sang trọng như vậy mà sự thật thì vợ chồng thằng bạn rách bươm, như vậy lão Harrison chắc có lẽ còn te tua hơn, vì căn nhà vợ chồng lão đang sống coi rất xoàng, chiếc xe lão đang chạy đáng được đưa vào nghĩa địa xe.
Nhưng như tôi đã giải thích từ đầu, thành phố này bé xíu, thì không thể dùng vải thưa để che mắt thánh được. Sự thật là vợ chồng lão Harrison giữ quyền sở hữu chủ của vài trung tâm bán xe hơi và gần một chục tiệm giặt ủi trong thành phố. Cả hai dịch vụ này đều thịnh vượng thấy rõ, như vậy thì lời đồn về sự giàu có của gia đình Harrison cũng có phần chính xác.
Ðã giàu có như vậy mà họ lại còn chi tiêu rất là dè xẻn. Quanh năm suốt tháng không thấy bóng hai vợ chồng lai vãng ở các nhà hàng. Vợ tôi kể lại rằng chính mắt nàng thấy hai ông bà Harrison có mặt trong những buổi sáng sớm thứ bảy ở chỗ bán đồ "garage sale" hay "yard sale", và họ mua đồ trả giá vớt vát từng đồng xu cắc bạc. Còn khi đi chợ ở các siêu thị, lúc ra trả tiền họ thủ sẵn trong bóp một mớ "coupons". Tôi còn lạ gì cái trò các bà các cô cắt xén mấy tấm phiếu coupon để tiết kiệm được đồng nào hay đồng đó. Chỉ có mấy bà mấy cô mới có thời giờ làm mấy chuyện này, đàn ông không bao giờ
chi ly đến mức đó. Nghĩ đến đó, tôi nghi rằng mụ vợ của lão Harrison là đầu dây mối nhợ của tính bủn xỉn, và tôi cảm thấy tội nghiệp cho lão vô cùng, có tiền mà không dám xài, nói đúng hơn là không được cho phép xài.
Mãi sau này tôi mới biết được là mình nghi oan cho bà Harrison. Số là vì vợ tôi làm ở tiệm chăm sóc móng tay, nơi bà Harrison thường xuyên lui tới để làm móng, từ đó bà có dịp tâm sự với vợ tôi. Bà than phiền về ông chồng keo kiệt của mình, tiền có bao nhiêu ông mang nhét hết vô trong chương mục, bà muốn xài một đồng cũng phải thông qua ông. Bà nói với vợ tôi:
- Chỉ có khi nào gã chết đi thì tao mới thoát khỏi cái cảnh "người giàu đội lớp người nghèo" này!
Nhưng rồi ở đời có ai học được chữ ngờ, và ước nguyện của bà Harrison đột nhiên trở thành hiện thực. Lão Harrison đang khỏe mạnh, một hôm bị trúng gió, ngã lăn quay ra, chết không kịp ngáp. Thiên hạ còn đồn rằng lão quá "Harrison", không chịu mở máy sưởi trong nhà, sợ tốn gas. Trời mùa đông lạnh lẻo, tuổi già không đủ sức đề kháng những biến chuyển bất ngờ của thời tiết, và gã đã đi bán muối vào một ngày chớm đông.
Người Mỹ khác Việt Nam ta ở chỗ họ rất thật thà, ruột ngựa. Bà Harrison là một bằng chứng hiển nhiên. Ngày chồng bà chết, bà lên tiệm vợ tôi, với nét mặt hớn hở bà ôm vợ tôi, nói lớn:
- Tao tự do rồi Ðào ạ! Bắt đầu từ hôm nay tao mới thật sự sống cho tao, muốn ăn gì thì ăn, muốn sắm gì thì sắm. Thứ bảy này mày có chương trình gì không? Nếu không, thì tao mời vợ chồng nhà mày đến dự buổi tiệc tại gia. Tao mời đông lắm, nhớ đến chơi cho vui nhé. Nhất định phen này, con này sẽ cho mọi người biết nó không "Harrison" như họ vẫn nghĩ.
Bà ta nói liền một hơi như chưa bao giờ được nói, quả thật bà ta đã được trả tự do, tự do ăn xài như bà ta vừa tuyên bố, và cả tự do nói năng. Tuy nhiên vợ tôi cũng cảnh giác bà ta, nàng hỏi:
- Bà có đọc qua di chúc của ổng chưa?
Bà Harrison thoáng giật mình, lắc đầu:
- Ngày mai tao mới gặp luật sư của thằng chả, mà chắc không sao đâu, họ hàng bà con quyến thuộc của thằng chả, chả đã cắt liên lạc tất vì xưa nay chả vẫn sợ họ thấy người sang bắt quàng làm họ. Chắc cả gia tài để lại cho tao thôi.
Vợ tôi tiếp tục cảnh giác:
- Biết đâu chả để lại cho hội từ thiện nào thì sao?
Nghe đến đó bà Harrison phá lên cười, và nói:
- Hey, mày nên nhớ Harrison vẫn là "Harrison"
Cuối tuần đó, vợ chồng tôi đi dự đám tang của chồng bà. Ở nghĩa trang, bà Harrison trang phục bộ đồ đen, đội mũ đen, đi giầy đen, xách bóp đen. Tất cả một màu đen tang tóc, nhưng chúng tôi biết rõ trong lòng bà không đến nỗi đen như vậy, cuộc đời bà từ đây một màu đỏ chan hòa. Ðây là lần đầu tiên tôi đi dự đám tang bên Mỹ, thấy có khác với mấy cái đám ma bên quê nhà, vì ở đây không có cảnh người khóc mướn, không có kèn trống ỉ ôi, không có xe đám ma diễn hành, nhang khói nghi ngút. Chỉ có ông cha đọc mấy câu thánh kinh, cầu nguyện cho linh hồn của kẻ quá cố sớm về nước Chúa.
Thiên hạ đi dự hôm đó khá đông, phần lớn trong số này tò mò muốn đến xem cái tang lễ của kẻ nổi tiếng bủn xỉn nhất thành phố có khác ở chỗ nào. Họ thất vọng, bỏ về vì thấy cái tang lễ này cũng trịnh trọng tốn kém, cũng xe limousine đen chở quan tài, cũng có cha làm lễ cầu siêu, vv... Họ đâu có biết rằng bà Harrison đã lợi dụng cơ hội này để phô trương cho thiên hạ biết bà ta cũng biết xài tiền.
Lợi dụng lúc vắng vẻ, vợ tôi kéo bà Harrison ra một góc, nàng hỏi:
- Sao, bà đã nghe qua di chúc của gã chưa?
Một nụ cười nở trên môi người góa phụ:
- Rồi, trọn phần gia tài là của tao. Tuy nhiên gã có đòi hỏi một điều duy nhất.
"Ðiều gi?" Vợ tôi vội hỏi.
- Gã muốn trước khi được chôn cất, tất cả phần tiền trong ngân hàng phải được đổi ra thành giấy 100 và 1000 rồi đem đốt, tẩm liệm trong quan tài, chắc gã muốn khi về bên kia thế giới có tiền để mà xài.
Vợ tôi buột miệng nói bằng tiếng Việt:
- Tiên sư thằng già! Ngủm củ tỏi rồi mà còn tham lam!
Bà Harrison không hiểu nàng nói gì, bèn hỏi lại:
- Cái gị
Vợ tôi xua tay:
- Không có gì hết. Như vậy bà tính sao?
- Còn tính sao nữa, thì phải thực hiện theo ước muốn của thằng chả chứ sao, chứ không thằng chả hiện hồn về đòi nợ thì tao làm sao mà yên ổn sống đây!
- Trời! Tôi chắc số tiền đó không phải là ít.
- Còn phải nói, cũng cả chục triệu chứ ít gì!
Nhưng rồi nét mặt bà ta hân hoan lên thấy rõ, bà kể tiếp:
- Tuy nhiên tao đã làm vừa lòng thằng chả, tức là đem đốt một chục triệu, mà chỉ tốn có vài đồng bạc.
Vợ tôi ngạc nhiên:
- Tôi không hiểu bà muốn nói gì!
Bà Harrison hạ giọng nói nhỏ:
- Tao học được cái trò đốt tiền cúng cô hồn của bọn Á-Ðông tụi mày đấy. Tao ra chợ Tàu, mua đúng một chục triệu tiền mã kim...
Vợ tôi đã vỡ lẽ, nàng bắt tay chúc mừng bà. Rồi nàng quay qua
nói với tôi:
- Ít nhất bà ta cũng không đến nỗi ngu. Chỉ tội nghiệp cho ông già, đến chết cũng không được chôn với tiền thật.
Tôi nói đùa một câu:
- Tội nghiệp cho ổng có một bà vợ quá "Harrison"!
Lúc quan tài của kẻ quá cố được đưa xuống lòng huyệt sâu, tôi tự hỏi bên trong tấm áo quan kia, ông Harrison đang nghĩ gì? Ông đang vui với số tiền mà ông tưởng là tiền thật, đến lúc chết cũng còn kề cạnh bên ông. Hay là ông đang bực bội bởi cái đam tro lụi tàn của đống vàng mã rẻ tiền đang bám quanh ông, cho đến lúc chết.
Bùi Thanh Liêm
Thu '95