vhnt, số 198
21 June 1996
Trong số này:
thư vhnt......................................................Phùng Nguyễn
T h ơ :
1 - Chạy vòng / Nhập thiền / Tập tầm vong ......Nguyễn Hiện Nghiệp
2 - Thơ tình cho em .......................................Tôn Thất Hưng
3 - Chị em .......................................Trương-Nguyễn Thi Thanh
4 - Nói với em ...........................................Trần Thái Vân
5 - Tình tự dưới trăng .....................................Ðức Lưu
6 - Chuyến tầu về Huế ....................................Nhật Quân
7 - thơ James Joyce: Chamber Music (4 excerpts)
Bốn Thính khúc ........................Nguyễn Phước Nguyên dịch
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
8 - Tìm về núi cũ xem mai nở ..........................Trần Hữu Cư
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Lỗ Tấn: Chống chiến tranh .................Nguyễn Vy-Khanh dịch
21 tháng 6, 1996
Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười những chuyện một đêm mơ
Một lần nào đó trong đời chinh chiến, Trần Quang Dũng đã ghé lại chiếc quán bên đường, ngồi uống rượu và nhớ về người tình đã xa. Nhiều năm sau đó ở vùng hỏa tuyến, Tô Thùy Yên đã thốt lên:
Chiều trên Phá Tam Giang
Anh sực nhớ em
Nhớ bất tận
Chiến tranh và chia ly. Các nhà thơ đã nói về chúng. Rất nhiều. Các nhà văn cũng nói về chiến tranh rất nhiều. Erich Maria Remarque, Heinrich Boll, Ernest Hemingway, Leon Tolstoi, Albert Camus, etc... Và cả Lỗ Tấn, về nỗ lực "Chống Chiến Tranh" của Mặc Tử qua ngòi bút dịch thuật cẩn trọng của Nguyễn Vy Khanh mà chúng ta sẽ được thưởng thức trong số vhnt này cùng với những bài thơ của James Joyce do Nguyễn Phước Nguyên chuyển ngữ bên cạnh các tiết mục thường lệ.
Xin chúc các bạn một cuối tuần tràn đầy niềm vui.
Thân ái,
Phùng Nguyễn
(viết thay CCB)
chạy vòng
người hỏi sao ta cứ chạy vòng
làm sao người hiểu chạy, là không
khi trên trái đất đang quay ngược
người đứng, mà lòng luôn chạy rong
nhập thiền
thấy trước cơn mưa lúc nhập thiền
một người khuất bóng một người điên
đến khi mở mắt thì quanh quất
rào tiếng mưa lòng tuôn, ngoài hiên
tập tầm vong
ta đứng im chờ em cuối sông
nhớ thời thơ ấu tập tầm vong
bây giờ, không khác ngày xưa mấy
ta vỗ tay mình, vang tiếng không
Nguyễn Hiện Nghiệp
Thơ Tình Cho Em
Mỗi ngày không gặp em
Ðời buồn lên mấy chút
Mỗi ngày ta gặp em
Ðời khổ thêm mấy lần
Lời nói cứ phân vân
Sợ khi ngày đi biệt
Thời gian nhành lá biếc
Vàng rụng theo cuối mùa
Người khóc lúc trời mưa
Ðời lùa ta góc bể
Em về cuối con đường
Bỏ mình ta lặng lẽ
Viết thơ tình cho em.
Tôn Thất Hưng
Chị Em
tặng Vi
Em kể chị nghe chuyện của lòng
cái ngày con gái chẳng biết mong
chẳng chờ, chẳng đợi, không vương vấn
tóc xoã vô tư, mắt chớp trong.
Chị cười vọng vỡ, em vụn vỡ
mười ngón tay đan, tóc chụm đầu
thả lá trôi ngang cho một thuở
mình giống nhau mà chẳng biết nhau!
Chị kể em nghe chuyện một người
giọng nói đậm đà quá đi thôi
chị về ươm giấy làm thơ mới
ôm đàn rơi giọt nhớ xa xôi.
Em đùa trêu chị khéo mộng mơ
giấy thơm tình chị biết đợi chờ
ai gieo nhung nhớ vào tim chị
là phước bao đời để lại cho!
Chị cười nắc nẻ, em nắc nẻ
đẩy xô nắng chạy bước gập ghềnh
tóc em lây lẫn hương tóc chị
giọt khóc giọt cười loãng mông mênh
Trương-Nguyễn Thi Thanh
Nói Với Em
Em mười tuổi - một tuổi đời thơ dại
Mắt đen huyền không gợn sóng thời gian
Gót chân son vườn địa đàng chưa lạc
Chưa buồn vương khi nắng xuống chiều tàn
Rồi em sẽ trở thành chim bé nhỏ
Học làm duyên mang áo luạ tiểu thơ
Vui lắm đó những niềm vui không rõ
Trong đêm về em thức giấc mộng mơ
Khi em hát bài tình ca thứ nhất
Trăng rằm sang, mười lăm tuổi, rất tròn
Môi em nở một cành hoa đẹp nhất
Như mai rừng vàng thắm tận đầu non
Em sẽ học làm bài thơ tình aí
Chữ cười nghiêng, giâý trắng, mực xanh màu
Em tưởng đến những khung trời hoang dại
Dòng thời gian em ước chảy qua mau
Rồi em lớn như chim lìa tổ cũ
Cất cánh bay về tận cuối chân trời
Em rộn ràng trong những điều mơí thử
Ðêm mỉm cười theo sóng gọi ngàn khơi
Rời một thuở hồng hoang xa lắc ấy
Em vu quy, áo lụa bước theo chồng
Vài cuộc tình thơ vẫn còn nguyên đấy
Em đốt rồi tất cả sẽ thành không
Em hạnh phúc trong những niềm say đắm
Trong tình yêu chung ý mộng cùng trao
Nụ hôn nồng đêm qua còn say đắm
Gò má em hừng đỏ ánh hồng đào
Và em sẽ một ngày kia làm mẹ
Gió giao muà đợi thế hệ mới sang
Trên mặt em vết nắm vàng rất nhẹ
Ðừng buồn em vì cuộc sống tuần hoàn
Trần Thái Vân
Tự Tình Dưới Trăng
Trăng vẫn mặc, nghiêng mình soi bóng lẻ
Ðợi chờ ai? Quạnh quẽ lắm trăng ơi!
Ðáy thu trơ bóng nguyệt, nữa khuya rồi,
Hơi sương lạnh, trăng ngậm ngùi than thở
Ta cũng như trăng một lần dang dở
Cũng một phen ân ái thật nhiều,
Cũng một thời bập bẹ tiếng yêu,
Rồi vụng dại, đã uống nhiều chén đắng.
Thuở ấy tình ta, một bờ cát trắng
Ngoan ngoãn in hằn vết ngọc người xưa,
Ðã nâng niu, ôm ấp, rất dại khờ
Nào nghĩ đến một ngày kia... sóng lấp.
Dạo ấy tình ta, bến bờ xa tắp
Vun xới thật đầy hai chữ yêu đương
Thuở vừa yêu, ôi dại lắm! Tình trường,
Ta đổi trọn một mảnh hồn rất thật.
Một mảnh tình đầu, nụ hôn thứ nhất
Gửi trọn người và chẳng chút suy tư,
Ta vẫn cho, song chẳng nhận bao giờ
Ừ tình ái, đâu cần trao đổi
Ta vẫn mặc, dẫu biết người gian dối,
Ném tình ta vào vũng tối thật sâu
Ðã cuồng si, say đắm mối tình đầu
Ta bất chấp những khi người hờ hững.
Những lúc ái ân, thịt da kề cận,
Trao cho nhau, tưởng đã của nhau rồi
Nhưng với người, chỉ một phút mua vui
Tìm ân ái trong vài giây cuồng loạn.
Với riêng ta, tâm hồn, thể xác
Trao cho nhau, là đã của nhau rồi
Vẫn si cuồng ôm hoài bão xa khơi
Mong chiếm trọn tim người, ta dại quá
Ðể rồi hôm nay, trở thành khách lạ
Người đan tay xé nát mảnh tình khờ
Ta bẽ bàng, ôm nỗi hận vu vơ
Tìm dĩ vãng lấp vào cõi trống
Ta đã khóc, đã chán chường, tuyệt vọng,
Một nữa hồn rồi cũng chết! Như trăng,
Nữa hồn kia trong bóng tối ăn năn
Vẫn lặng lẽ, ta quay về ký ức...
oOo
Ngao ngán tiêu sầu, vết lòng rạn nứt
Theo hơi sương, ta thổn thức cùng trăng.
Lời tự tình lắng đọng cõi âm thinh
Trong sương đặc, chợt rùng mình... khẽ lạnh.
Ðức Lưu
Chuyến Tàu Về Huế
Trên chuyến tàu về Huế
Tôi có gặp người em
Chuyện trò rồi quen biết
Em nụ cười hồn nhiên
Ru hồn tôi ngây ngất
Nỗi u phiền bay mất
Cùng cây cỏ thụt lùi
Tương lai về nở vội
Theo chuyến tàu vươn nhanh
Ðến nơi sân ga nhỏ
Trời như hiểu nỗi lòng
Cơn mưa chiều mùa hạ
Kéo dài cuộc chia xa
Giòng nước về lắng nghe
Lời yêu tôi mới ngỏ
Em thẹn thùng bâng quơ
Nhìn xa vời không nói...
Ðêm nay cơn mưa vội
Vẽ ngang khung trời xa
Mang đến ký ức nhòa
Nỗi buồn sao xa vắng
Thương người em áo trắng
Thương mái tóc xanh xao
Sao xưa em không nói
Ðể nỗi buồn tôi mang
Chừ lang thang xứ lạ
Chợt buồn lúc mưa sa.
Nhật Quân
CHAMBER MUSIC - James Joyce
(4 excerpts)
I
Strings in the earth and air
Make music sweet;
Strings by the river where
The willows meet.
There's music along the river
For Love wanders there,
Pale flowers on his mantle,
Dark leaves on his hair.
All soft playing,
With head to the music bent,
And fingers straying
Upon an instrument
II
The twighlight turns from amethyst
To deep and deeper blue,
The lamps fills a pale green glow
The trees of the avenue.
The old piano plays an air
Sedate and slow and gay;
She bends upon the yellow keys,
Her head inclines this way.
Shy thoughts and grave wide eyes and hands
That wander as they list -
The twighlight turns to darker blue
With lights of amethyst.
III
At that hour when all things have repose
O lonely watcher of the skies
Do you hear the night wind and the sighs
Of harps playing unto Love to unclose
The pale gates of sunrise?
When all thing repose do you alone
Awake to hear the sweet harps play
To Love before him on his way,
And the night wind answering in antiphon
Till night is overgone?
Play on, invisible harps, unto Love,
Whose way in heaven is aglow
At that hour when soft lights come and go,
Soft sweet music in the air above
And in the earth below.
IV
When the shy star goes forth in heaven
All maidenly, disconsolate,
Hear you amid the drowsy even
One who is singing by your gate.
His song is softer than the dew
And he is come to visit you.
O bend no more in revery
When he at eventide is calling,
Nor muse: Who may this singer be
Whose song about my heart is falling?
Know you by this, the lover's chant,
'Tis I that am your visitant.
* * * * *
THÍNH KHÚC
(4 đoạn trích dịch)
I
Âm thanh giao hưởng giữa đất trời
Ngọt ngào khúc;
Giòng sông thì thầm điệu rong rêu
Lả lơi liễu.
Tình Yêu khoác áo màu hoa nhạt,
Mái tóc sậm sắc lá,
Những bước chân hoang lên đời, khẽ
Vang bờ sông hoan ca.
Vũ trụ nghiêng mình nghe
Từng nốt nhạc dịu huyền
Nâng niu cung trầm lắng
Phím đàn của thiên nhiên
II
Hoàng hôn chìm màu tím thẫm
Khuất sâu vào chớm đêm xanh
Ánh đèn khuya hoen màu lá
Hàng cây bên đường long lanh.
Tiếng dương cầm xưa từng hơi gió, vọng
Ngất ngâỵ Và chậm rãị Và hân hoan.
Phím xác lá vàng thì thào trỗi nhịp
Không gian cúi đầu tấu khúc thời gian.
Ánh mắt tìm đôi bàn tay trơ, ẩn ý nắm
Ðiệu luân vũ phiêu du
Ðưa hoàng hôn nhau đến đêm xanh ngát
Rực tím ánh thiên thu.
III
Giờ phút ngủ say giấc mơ vạn vật
Hỡi ánh mắt cô đơn bóng tối,
Có nghe trong gió đêm -
Tiếng phong cầm thơm làn hơi mời gọị Nhé,
Tình Yêu gõ cửa ánh mai êm.
Em có lắng nghe trong tận cùng thinh lặng -
Giọng hát dạ hương hợp xướng niềm riêng,
Ðón bước Tình Yêu đưa về cuối nẻo
Của lặng lẽ bóng tối qua đời -
Một nốt nhạc vô biên.
Réo rắt lên đi, những cung đàn vô thể
Ðường của Tình Yêu tinh tú trải hoa
Giờ phút nhiệm màu lung linh ánh sáng
Ca khúc của gió trời, và
Nhạc khí của thiên nhiên.
IV
Khi nền trời hắt lên vì Sao Hôm e thẹn
Ánh sáng khôi nguyên đơn lẻ hành tinh
Khơi lên buổi tà huy ngái ngủ
Giọng hát dạ trường rơi nhẹ ngoài hiên
Ru khẽ hồn em giọt sương trinh nữ
Nhẹ gót Tình Yêu ghé, bước đầu tiên
Ðừng suối tóc nghiêng dài vào mộng tưởng
Thương nhớ trong, chiều mời gọi lên ngai
Ðừng con tim trăm ngàn dấu hỏi -
Giọng hát, ai ? Ðàn, ai ? Tấu khúc, ai ?
Hãy lặng nghe điệu ru hoàng hôn rót vào đêm tối
Là tiếng Tình Yêu đã đến bên đờị
Nguyễn Phước Nguyên chuyển ngữ
(for BBBB)
Tìm Về Núi Cũ Xem Mai Nở
Tìm về núi cũ xem mai nở
Mộng bén ngàn xa hạt điểm canh.
Quách Tấn
Trong một bài nhận định về thi ca Quách Tấn cách đây đã hơn ba chục năm, Phạm Công Thiện đã viết một câu hay tuyệt: "Tôi tưởng chừng những tiếng thơ trên đã phát xuất từ trung tâm điểm của vũ trụ, xa lắm, xa lắm". (1)
Những tiếng "xa lắm" của anh Phạm Công Thiện dĩ nhiên phải được hiểu theo nghĩa biểu tượng.
Dù vậy, có những bài thơ của Quách Tấn mà mỗi lần đọc lên, tôi khó có thể nghĩ rằng ông đã làm những bài thơ đó tại những thành phố có tên là Qui Nhơn hay Nha Trang, hay tại bất cứ một thành phố nào ở Việt Nam. Tôi có cảm tưởng Quách Tấn là một ẩn sĩ đang sống trong một ngôi chùa cổ tại một thảo nguyên hay một ngọn núi cao nào đó, một nơi cách xa hẳn chốn trần gian đầy bụi bặm này.
Vì chỉ trong cô đơn heo hút như vậy, Quách Tấn mới có thể lắng hết cả cái hồn sâu thẳm của vũ trụ mênh mông này:
Sông dài bãi vắng núi chênh vênh,
Chùa khuất sau mây tiếng trống rền
Gió nước nôn nào lòng đãi ngộ
Lạnh lùng sương xuống bóng trăng lên.
(Ðọng bóng chiều)
Và tại nơi "thâm sâu cùng cốc" ấy, trong một thoáng giây ngắn ngủi, chừng như Quách Tấn đã thấy được cánh cửa của vô hạn:
Thoảng tiếng chuông chùa vọng
Bóng đèn khuya rung rinh
Nao nao lòng giếng quạnh
Hơi thu tràn hư linh
(Mộng Ngân Sơn)
Rồi tôi tưởng tượng rằng, một hôm nhà ẩn sĩ đó đã bị bắt buộc phải xuống núi trở lạị Dù sống giữa cuộc đời, nhưng lòng ông lúc nào cũng ngóng vọng về nơi chốn xa xôi ấy:
Mây nước nhiễm phong trần
Nơi đâu tình cố nhân
Những đêm buồn tỉnh giấc
Chùa cũ tiếng chông ngân
(Mộng Ngân Sơn)
Ông nhớ rõ từng lời kinh kệ, nhớ nhất là giọt trăng đã đọng lại trên hành lang heo hút trong ngôi chùa cổ của một đêm sắp tàn:
Lặng lẽ chiên đàn nhả khói hương
Trăng tà đôi giọt rụng lan can
Chùa xa riêng cảm đêm thu quạnh
Vần kệ ngân đưa giấc mộng tàn.
(Ðọng bóng chiều)
Và nhớ những chiều núi non sau cơn mưa còn đẹp hơn cả một giấc mộng:
Mưa tạnh non cao đọng nắng chiều
Hồi chuông chùa cũ đọng cô liêu (2)
Hai câu thơ có sức mạnh hoài niệm lạ lùng. Gần một thế kỷ đi qua trên cuộc đời này, ngoảnh nhìn lại chẳng còn nhớ gì hết, ngoài một chút núi non tịch mịch trong hồn của thi nhân mà thôi.
Chắc chắn những bài thơ trên của Quách Tấn không phải là sự rung động nhất thời hay ngẫu nhiên, mà nó đã được hun đúc sâu xa bởi một khát vọng tâm linh. Khát vọng đó đã một lần được Quách Tấn phát biểu:" Làm thơ là để gửi tấc lòng vào thiên cổ chứ không phải để phấn sức cho tài ba trong nhất thời - đó là lời của Trần Tử Ngang mà tôi đã học thuộc lòng từ khi mới tập làm thơ. Ngày xưa tôi đã làm thơ là để gửi lòng vào thiên cổ, như lời Trần Tử Ngang. Nhưng từ ngày tội nhận thấy văn chương là một pháp môn, một đạo, thì tôi làm thơ, viết văn là để giải thoát tâm hồn."(3)
Như vậy, thi ca theo quan điểm của Quách Tấn là một pháp môn, một đạo để ông giải thoát tâm hồn. Vậy ông đã đạt được khát vọng ấy trong thi ca của ông chưả Bài thơ sau đây sẽ giải đáp cho ta câu hỏi đó:
Mây thu chớp nhẹ cánh thu hồng
Hắt ánh tà huy trắng mặt sông
Bờ giạt sóng lau vòm ngọn bấc
Ðợi đò lặng lẽ bóng sư ông
(Ðọng bóng chiều)
Vậy đúng như Phạm Công Thiện đã nói, thì: "Hiện nay Quách Tấn đã đi gần tới tiêu đích của mình rồi" (4)
Trần Hữu Cư
Nha Trang, ngày giỗ đầu của Quách Tấn
(1) Nhiều tác giả, Quách Tấn, qua cái nhìn phê bình văn học,
NXB Trẻ, TP.HCM 1994, tr.90
(2) Sách đã dẫn, tr.356
(3) Sách đã dẫn, tr. 266
(4) Sách đã dẫn, tr. 103
Lời Giới Thiệu: Truyện Chống Chiến Tranh (Phi công) sau đây Lỗ Tấn đã lấy ý phần lớn từ lịch sử chứ không từ truyền thuyết như những truyện khác trong tập Cố Sự Tân Biên (Truyện Xưa Viết Lại). Tựa nguyên bản "Phi Công" có nghĩa là "không dùng binh mà đánh hoặc chống lại", nói lên chủ trương phản đối chiến tranh của Mặc Tử.
Nhân vật chính của truyện là Mặc Tử, tức thầy Mặc tên Ðịch, sống vào thế kỷ thứ năm (480-397?) trước Công nguyên (sanh sau Khổng Tử từ 50-70 năm) người nước Lỗ. Hiền giả thời cổ, xuất thân từ giới bình dân, ông đã sáng lập trường phái triết học vẫn được gọi là Mặc Học - cùng với Khổng và Lão là ba học thuyết chính đã ảnh hưởng mạnh nền tư tưởng Trung Hoa. Ông được xem là tác giả bộ sách Mặc Tử, gồm 53 thiên mà phần lớn là do các đệ tử của ông thu chép lại. Mặc Học ảnh hưởng mạnh vào đầu thời Chiến Quốc là thời mà các quân vương liên tục gây hấn và tranh giành ảnh hưởng nhau. Ông sống khắc khổ, có tài tranh luận (biện sỉ), thích đi thuyết giảng hòng cứu vớt thiên hạ.
Trước những cảnh tàn khốc của chiến tranh và khốn cùng của dân chúng, Mặc Tử chủ trương "Phi Công" và "Kiêm Ái": chống chiến tranh, chống đạo Nho, thuyết thiên mệnh (1), phản đối lễ nhạc (2), chủ trương thờ Trời và quỷ thần, đề cao tình yêu tất cả mọi người, yêu nhau tức không hại nhau mà còn phải giúp đỡ nhau và hơn nữa Kiêm Ái theo ông là một phương pháp tốt cai trị thiên hạ. Có thể nói các thuyết Phi Công, Kiêm Ái, cũng như Phi Mệnh, Phi Nhạc, Phi Nho, v.v... của Mặc Tử là một phản ứng tự nhiên chống những khía cạnh lễ nghi phiền phức và ca nhạc hình thức, xa xỉ của đạo Khổng mà dù sao Mặc Tử vẫn chịu nhiều ảnh hưởng (về tu thân, đạo đức, trọng hiền và tôn quân). Chủ trương bình đẳng của ông hơn hai nghìn năm sau được chế độ Trung cộng đề cao và coi như là nguồn gốc "bản xứ" của thuyết Karl Marx và cho Mặc Tử đại biểu giới công nông.
Triết thuyết có tính cách tôn giáo của ông bị nhiều bài xích và phê phê phán, như Mạnh Tử (3) là người nặng lời thóa mạ nhất:
- "Cho tới nay, chưa có một thánh vương nào đã tái lập được ổn định cho cả thiên hạ; các chư hầu thì đua nhau phóng đãng, các học giả ở chốn tư đường lại bàn luận điên rồ. Các lý thuyết của Dương Chu và Mặc Ðịch được lan truyền khắp thiên hạ. Nếu không luận theo Dương Chu thì người ta chạy theo Mặc Ðịch. Chi Phái Dương Từ chỉ biết có cá nhân mình (4): do đó không công nhận có vua. Chi phái Mặc Ðịch thì lại yêu tất cả mọi người (5): đó là không công nhận có cha. Không có vua không có cha, đó là cầm thú vậy (6).
Tuy nhiên, Mặc Tử không chỉ thuần đưa ra lý thuyết; ông còn thực hành chủ thuyết vào đời sống. Lòng kiêm ái, cuộc sống khổ hạnh, sự hăng hái làm điều nghĩa và quyết tâm của ông đã tác động mạnh đến độ Mạnh Tử vốn hăng say bài xích Mặc Học như nói trên đã phải có những lời đề cao ông:
- "Dương Tử theo vị kỷ chủ nghĩa chỉ biết có thân mình, nhổ một sợi lông mà làm lợi cho cả thiên hạ cũng không làm. Mặc Tử thì chủ trương Kiêm Ái nên dẫu trán mòn lỏng gót mà có lợi cho thiên hạ cũng vẫn làm" (7).
- "Mặc Ðịch thật đã yêu mến tất cả mọi người không phân biệt kỳ thị. Ðể giúp nước, ông có thể chấp nhận bị lột da từ đầu đến chân". (8).
Trang Tử (9) cũng phải đề cao Mặc Tử như sau:
- "Mặc Tử là người tốt ở dưới gầm trời. Muốn tìm không dễ gì được. Dù cho khô héo cũng không thể bỏ được. Thật là người tài vậy!"
Tư Mã Thiên trong sách Sử Ký (10) thì cho rằng Mặc Tử nối đạo vua Vũ nhà Hạ vì nếu so sánh hai người có nhiều việc làm giống nhau và cùng muốn cho nơi nơi yên lành người người no đủ.
Xã hội nước tàu thời Xuân Thu và Chiến Quốc là thời rất nhiễu loạn, các chư hầu tìm cách thôn tính nhau do đó cần thuật cường binh, cũng vì vậy mà những người bày mưu kế rất được trọng dụng. Mặc Tử đã gửi đệ tử đi làm quan cho nhiều nước như Tống, Việt, Vệ, Sở, Tề, vv (nhưng nếu có hành vi trái tôn chỉ thì bị gọi về). Trong hoàn cảnh đó, thuyết Phi Công của Mặc Tử rất lý tưởng nhưng có thể không hợp tình thế các chư hầu thời ấy.
Lỗ Tấn viết truyện Chống Chiến Tranh cho người Trung Hoa thời ông suy nghĩ. Ông kể lại chuyện Mặc Tử thuyết phục vua nước Sở đừng đánh Tống. Ngoài thiên 50 của sách Mặc Tử là nguồn cảm hứng chính, Lỗ Tấn đã xử dụng thêm các sách và kinh điển khác như Mạnh Tử, Hoài Nam Tử, Chiến Quốc Sách, Lã Thị Xuân Thu, vv. Tóm lại, đây là một câu chuyện lịch sử dựa trên một số tài liệu dồi dào.
Dĩ nhiên tác giả đã có một số chủ đích khi viết lại truyện Mặc Tử: Ðoạn văn Mặc Tử không tán thành với một trong số các đệ tử của ông khi người này xúi giục dân nước Tống tự sát, là Lỗ Tấn có ý châm biếm đám thi sĩ chạy theo Tưởng Giới Thạch và chính phủ Dân quốc sau khi quân đội Thiên Hoàng Nhật Bản xâm chiếm Mãn Châu vào năm 1931, đã làm lễ truy điệu các chiến sĩ hy sinh ở tiến tuyến, nhưng lại đã không dám tố cáo chính quyền đó khi họ có những thái độ hèn nhát như không dám chống cự lại ngoại xâm, như ký "hiệp ước ở chân Vạn Lý Trường Thành" tức nhục nhã chịu để mất Mãn Châu nhìn nhận biên giới Trung Quốc ngừng ở đó. Ðến đoạn quân lính đi thu góp nói là để cứu quốc, đã thu cả hành lý nghèo nàn của ngài Mặc Tử, Lỗ Tấn muốn chống lại việc chính quyền trung ương đã dùng đủ mọi cách để lấy hết của cải của người dân, nhưng một lần nữa lại bất động trước quân Nhật ngoại xâm. Cũng ở đoạn kết, nếu bạn đọc lưu ý sẽ thấy lòng thương người của Mặc Tử thật bao la không cần đền bù, vì khi ông trở về đi qua nước Tống, gặp mưa lớn, muốn núp dưới cổng thành thì chính người Tống giữ thành lại không cho ông vào trú mưa.
oOo
Chống Chiến Tranh
(Phi Công)
I.
Ðã nhiều lần, Công Dương Cao, đệ tử của thầy Tử Hạ (11), đến nhà thầy Mặc tử mà không được diện kiến. Phải đến lần thứ tư hoặc có thể là lần thứ năm, ông mới gặp được thầy Mặc ở ngoài cửa lúc thầy đang về lại nhà. Sau những rào đón lịch sự. Công Dương Cao bèn lễ phép hỏi, mắt vẫn không rời tấm chiếu rách:
- Thưa ngài, người ta nói ngài phản đối chiến tranh?
Mặc tử trả lời:
- Ðúng vậy!
- Như vậy thì các bậc đại phu không nên tấn công nhau?
- Không!
- Heo và chó còn bắt nạt nhau, thế thì con người ta...
- Thôi! Xin thôi! Giới Nho gia các ông tôn vinh thánh nhân, hiền giả, nhưng trong thực tế, các ông cũng bắt chước heo và chó. Xấu thay! Xấu thay! (12)
Mặc tử đứng dậy và đi nhanh về cuối bếp, nói lớn:
- Các người không hiểu ta!
Bước ra giếng gần cửa ra vào ở phía sau nhà, ông xoay tay quay lấy lên một bình đất sét nước đầy phân nữa; rồi hai tay nâng bình, ông uống hơn mười hớp, bỏ bình xuống, ông lau miệng và hướng về cuối vườn, ông gọi lớn:
- Canh Trụ (13)! Thế nào mà lại đã trở về rồi?
Canh Trụ tử nhận ra ông liền chạy đến gần; hai tay duỗi thẳng bên hông theo đúng nghi phép sĩ phu, cung kính chào thầy, sau đó cắt nghĩa, giọng hơi tức giận:
- Con đã xin từ chức; hành cử của họ không đi đôi với lời nói. Họ đã bằng lòng trả lương cho con một ngàn đơn vị cây kê mà rồi chỉ trả có năm trăm.
- Nhưng nếu họ trả hơn mười ngàn cây kê, ngươi có sẽ bỏ đi không?
- Dĩ nhiên là không!
- Trong trường hợp đó, nếu ngươi từ chức mà đi thì không phải vì hành động và lời nói của họ không đi đôi với nhau, mà tại vì ngươi tự coi như không được trả công đầy đủ.
Nói xong những lời đó, Mặc tử đi nhanh vào bếp và nói vói lại:
- Canh Trụ tử! Lấy bột bắp nhào nhuyễn cho ta!
Ðúng lúc đó Canh Trụ tử vừa từ nhà trên đi xuống; đó là một chàng thanh niên vạm vỡ khỏe mạnh.
- Thưa Thầy, có phải Thầy muốn dự trữ đồ ăn cho mười ngày?
- Ðúng vậy! Công Ðương Cao đã đi khỏi chưa?
Canh Trụ tử vừa cười vừa trả lời:
- Vâng, Cao đã đi, nhưng coi bộ giận dữ lắm. Cao cho rằng chúng ta tự hạ mình xuống ngang hàng thú vật khi chúng ta thuyết giảng đạo Kiêm ái mà lại không tôn kính cha mình trước hết (14).
Mặc tử bật cười lớn. Người đệ tử nói tiếp:
- Thưa Thầy, có phải Thầy sắp sang nước Sở?
- Ừ! Ngươi cũng biết rồi sao?
Trong khi Canh Trụ tử nhào bột mì với nước, Mặc tử lấy hòn đá lửa và bùi nhùi cọ sát châm lữa mấy cọng cây khô để nấu nước nóng; mắt không rời ngọn lửa, Mặc tử nói giọng chậm rãi:
- Trụ tử ạ, Công Thâu Ban tưởng rằng cái thông thái của mình có thể làm nổi được sóng và gây phong ba. Ðược cái tiếng sáng chế ra cây lao móc nạng và cây giáo khiến vua nước Sở gây chiến với nước Việt (15) vẫn chưa đủ; bây giờ y lại chế thang mây và xui khiến nhà vua chống lại nước Tống (16). Tống là một chư hầu nhỏ không đủ sức tự phòng vệ. Thôi ta hãy tìm cách tái lập hòa bình.
Canh Trụ tử nhồi bột xong, bỏ bánh bột bắp lên nồi hấp. Mặc tử trở về phòng riêng, tới kệ đồ khô lựa chọn một nắm rau lê ướp muối, lấy một con dao đã mẻ bằng đồng. Ông tìm thấy một nùi giẻ rách vẫn dùng để phủ đồ dự trữ. Ông gói tất cả lại khi thấy Canh Trụ tử bưng bánh đã chín vào phòng. Không kịp nhìn lại áo quần đang mặc và cũng không kịp mang theo khăn tắm, ông vội xỏ sợi dây nịt bằng da rồi đi xuống mấy bực thang thềm nhà, vội vã mang đôi dép bằng rơm, đeo hành lý lên vai rồi đi vội vàng không cả quay đầu nhìn lại. Bánh để trong bị hãy còn tỏa bay hơi.
Công Trụ tử hỏi lớn:
- Chừng nào thì Thầy trở về lại ?
Mặc tử trả lời vừa tiếp tục bước đi:
- Ta phải vắng mặt độ hai mươi ngày.
II.
Khi Mặc Tử đến được biên giới nước Tống, quai dép cỏ của ông đã đứt ba hoặc bốn lần. Ông có cảm giác lòng bàn chân phỏng vì bong, ông bèn dừng chân để nhìn: đế dép mòn đến độ lủng lỗ, hai bàn chân ông đầy chai cục và bọng. Bình thản coi như không sao, ông lại tiếp tục lên đường. Vừa đi ông vừa quan sát thấy dân chúng ở đông đảo nhưng những dấu vết tai ương như lụt lội hoặc chiến tranh vẫn xảy ra mấy thế kỷ qua, đầy dẫy khắp nơi. Vết tích tai ương biến chậm hơn là con người. Trong ba ngày trường, ông vẫn chưa được thấy một căn nhà nào đáng được gọi là giàu, cây cối không một cây nào đáng gọi là cao, cũng như ông vẫn chưa gặp được ai có vẻ lanh lợi và không một cánh đồng nào có vẻ mầu mỡ. Cuối cùng ông đến được kinh đô.
Thành lũy tuy được đắp dày nhưng cũ kỹ và đổ nát; có chỗ được sửa đắp lại vì thấy có đá mới. Ông quan sát thấy có một đống lu chậu chất đầy hào lũy chiến lược bảo vệ kinh thành; một vài người nhàn rỗi ngồi bên bờ hào, có vẻ đang câu cá. Mặc Tử thầm nghĩ:
- Có thể dân chúng đã biết tin.
Ông quan sát mấy người câu cá đó, thấy không có ai là đệ tử của ông.
Ðể xuyên qua thành phố, ông vào cửa Bắc đi theo đại lộ chính hướng về phía Nam, tất cả yên tỉnh và vắng lặng. Trước các cửa hàng gần như trống không có mấy tấm quảng cáo bán hạ giá, vẫn có vẻ không thu hút được khách. Trên mặt đường, một lớp bụi vàng, mỏng và lầy nhầy.
Ông thầm nghĩ " Xứ gì mà tệ mạt, vậy mà có người còn muốn đánh để lấy".
Dọc theo con phố chính, ông không thấy có gì đặc sắc, chỉ toàn là xác xơ nghèo nàn. Tin báo thành phố sắp bị tấn công có thể đã được đồn đãi nhưng người dân trong nước Tống vốn đã quen bị tấn công thường xuyên, do đó vẫn thấy tin đó không có gì đặc biệt. Và mọi người, không ai hơn ai, ai cũng thiếu áo và thức ăn, ai cũng chỉ có mạng sống làm sở hữu, họ cũng chẳng nghĩ tới việc chạy giặc trốn đi nơi khác. Không xa cửa thành Nam, Mặc Tử thấy có khoảng chục người đứng bao quanh một nhà hùng biện tay vung vẫy mạnh bạo và nói như thét:
- Chúng ta sẽ tỏ cho kẻ thù của ta biết cái đạo đức của dân nước Tống! Chúng ta biết chết cho ra chết, tất cả chúng ta, trong hoàn cảnh hiện nay, chúng ta chấp nhận chết! (17).
Mặc Tử nhận ra giọng của Tào Công Tử, đệ tử của ông, ông không có ý đến gần mà lại vội vã bước qua cửa để tiếp tục hành trình. Sau một ngày và nửa đêm đi bộ, ông dừng chân dưới mái hiên một nông trại ngủ cho đến rạng đông, sau đó ông lại lên đường. Ðôi dép nát tả tơi không đi được nữa, nùi giẻ đang bọc mấy cái bánh bột bắp cũng không đủ bọc hai chân. Ông đành xé một vạt áo; nhưng vải lại quá mỏng. Ðường nhà quê sỏi đá gồ ghề làm nát chân ông khiến ông bước đi khó khăn. Ðến buổi chiều ông ngồi dưới bóng cây hòe và mở gói lấy đồ ăn; cùng lúc, ông nghỉ cho chân bớt đau. Lúc bấy giờ ông nhìn thấy từ xa một xe cút kít nặng nề. Ðến gần ông, gã thanh niên ngừng lại, chào ông, gọi "Thầy", rồi cầm lấy vạt áo lau mặt đầy mồ hôi.
- Có phải là cát không?
Mặc Tử hỏi, đồng thời nhìn ra là Quản Kiều Ngao, đệ tử ông.
- Dạ phải, để phòng thủ chống lại thang mây.
- Các người có chuẩn bị gì khác không?
- Chúng tôi đã thu góp một ít gai, vôi và sắt vụn, nhưng cũng khó thu góp. Người có của thì không muốn cho, người có thành tâm muốn cho thì nghèo không có gì để cho. Toàn là thứ nói nhiều.
- Hôm qua dưới phố, ta có nghe Tào Công Tử diễn thuyết; hắn nói mà ta không biết hắn nói về đạo đức nào và xúi giục dân chết để làm gì. Hãy nói cho hắn biết mà từ nay đừng dùng những lời rườm rà và trống rỗng. Cái chết không phải là xấu; cái chết thì dĩ nhiên là khủng khiếp rồi, nhưng nếu cần thì phải đương đầu với sự chết để dân chúng được an bình.
Quản Kiều Ngao tiếp lời, giọng có vẻ hối tiếc:
- Thưa thầy, phải làm sao để đến gần hắn? Hai năm nay, hắn làm công chức, hắn hết còn vui vẻ tiếp chúng con.
- Còn Cầm Hoạt Ly (18).
- Y rất bận. Y mới thử cái nỏ nhiều lần, và con tin là y đang thám sát đất đai phía ngoài cửa thành Tây; đó là lý do tại sao Thầy chưa gặp hắn. Thầy ạ, Thầy có ý đi tìm Công Thâu Ban bên nước Sở?
Mặc Tử trả lời:
- Ðúng vậy, nhưng ta không thể biết Ban có nghe khuyên can của ta không. Cứ hãy tiếp tục chuẩn bị, đừng tin tưởng gì nơi tài hùng biện của ra.
Quản Kiều Ngao kính cẩn cúi đầu từ giã Thầy. Mặc Tử lại tiếp tục lên đường, hắn nhìn theo một lúc rồi tiếp tục vào thành phố với cái xe đẩy kêu cút kít.
III.
Thành Dĩnh, kinh đô nước Sở, không có gì tương đồng với kinh đô nước Tống; đường xá rộng rãi, nhà cửa sang trọng, các cửa tiệm đầy hàng hóa xa xỉ, vải gai trắng như tuyết, ớt có màu đỏ chói, da hoãng lốm đốm quý, hạt sen hạt nào hạt nấy to. Người dân nước Sở, vóc người nhỏ hơn người các nước mạn Bắc, có dáng vẻ đầy năng lực và linh hoạt. Mọi người ăn vận tử tế đầy đủ; bên cạnh họ, Mặc Tử với manh áo khoác cổ xưa, áo dài rách tả tơi, chân thì nùi vải bọc quanh, có vẻ giống một người ăn mày thời trước.
Ở trung tâm thành phố là một khu thương mại đồ sộ với nhiều cửa tiệm, là nơi lúc nào cũng đông người. Cũng nơi trục lộ giao thông chánh này là nơi họp chợ. Thấy có một cụ già có vẻ nho nhã, Mặc Tử bèn hỏi thăm nếu ông ta biết chỗ cư ngụ của Công Thâu Ban, nhưng đáng tiếc vì thổ ngữ khác biệt, Mặc Tử đã không thể cắt nghĩa cho người đó hiểu ông muốn gì. Ðến khi Mặc Tử bắt đầu viết chữ lên lòng bàn tay trái thì thình lình có giọng hát cất lên lấy hết sự chú ý của mọi người ở đó: đó là giọng hát của Giang Linh, ca nữ nổi tiếng, cô ta hát bài ca kêu gọi lòng yêu nước và mọi người có mặt đều hát theo. Một lúc sau thì ông cụ nhà nho cũng hát theo. Biết rằng người đối thoại của mình sẽ không trở lại đọc chữ viết trong lòng bàn tay,
Mặc Tử khởi chạy xa hơn sau khi chỉ mới viết xong một nửa chữ "Công". Khắp nơi, mọi người đều hát, Mặc Tử không còn tìm được ai để hỏi đường. Thật lâu sau, có lẽ khi người ca sĩ thôi hát, vắng lặng trở lại lần lần và Mặc Tử hỏi thăm một người thợ mộc địa chỉ nhà Công Thâu Ban.
Người thợ mộc chủ tiệm, vóc người to lớn với khuôn mặt vàng và râu mép đen, có vẻ thông thạo:
- Ông muốn hỏi thầy (19) Công Thâu, người nước Lỗ, là người đã sáng chế ra cây lao móc nạng và cây giáo đó ư? Thầy ấy ở không xa đây lắm: ông cứ đi trở lùi lại, qua khỏi ngã tư đến đường hẻm thứ nhì thì rẽ về phía Ðông, rồi rẽ xuống phía Nam và cuối cùng rẽ về phía Bắc. Ngôi nhà thứ ba mà ông sẽ thấy là nhà Công Thâu Ban.
Sau khi đã viết lại chữ trên lòng bàn tay và hỏi đi hỏi lại người thợ mộc đã chắc hiểu ông muốn gì, Mặc Tử tập trung tâm trí để nhớ lời chỉ dẫn, ông cảm tạ người thợ mộc rồi chạy thật nhanh đến đó.
Ðúng như lời chỉ dẫn: trước cửa nhà thứ ba, một tấm biển bằng gỗ bách hương được chạm trổ khéo có ghi sáu chữ "Lỗ Công Thâu Ban chi gia" (Nhà Công Thâu Ban người nước Lỗ).
Tốc, tốc...
Mặc Tử đập cửa vài cái với vòng đồng đỏ có cái đầu sư tử ngậm, ngạc nhiên thấy người gác cửa hiện ra, lông mày dữ dằn, cái nhìn hung tợn, hét to với ông:
- Chủ nhà không tiếp ai hết. Ðồng bào các người tới ăn mày ở đây quá nhiều.
Tức thì cửa được đóng lại. Mặc Tử lại đập cửa. Bên trong không một tiếng động. Tuy nhiên người gác cửa cảm kích bởi tia mắt của người khách lạ, do đó hắn liền đi báo cho chủ nhà biết. Trong tay cầm thước vuông, Công Thâu Ban đang đo mô hình thang mây (20). Tên đầy tớ nói nhỏ vào tai chủ:
- Thưa ông chủ, lại thêm một đồng hương của ông, một con người kỳ dị...
- Ông ấy tên gì?
Anh gác cửa run rẩy trả lời:
- Dạ, con... chưa hỏi tên ông ta.
- Vậy thì ông ấy ra sao?
- Ông ấy giống người ăn mày, độ chừng ba mươi tuổi; cao, mặt mày xạm đen...
Công Thâu Ban nghe đến đó ngạc nhiên kêu lớn;
- Ồ! Chắc là thầy Mặc rồi!
Ông bỏ thang mây sang một bên, chạy nhanh xuống nhà nhẩy từng bực đôi cầu thang. Anh gác cửa cũng ngạc nhiên không kém, chạy theo chủ nhà để ra mở cửa. Mặc Tử và Công Thâu Ban cung kính chào nhau trong sân nhà. Công Thâu Ban mừng rỡ, đưa Mặc Tử vào phòng khách:
- Vậy là ngài! Sức khỏe ngài ra sao? Ngài vẫn bận luôn chứ?
- Ta lúc nào cũng vậy!
- Thưa ngài, nếu ngài phải đi xa như vầy, chắc là ngài có điều khuyên bảo tôi!
Mặc Tử điềm tỉnh bắt chuyện:
- Ở phía Bắc có người đã dám lăng nhục ta. Ngươi có thể đi giết hắn giùm không.
Mặt mày Công Thâu Ban tối sầm lại. Mặc Tử nói tiếp:
- Ta sẽ trả ngươi mười đồng tiền.
Ðề nghị này chạm tự ái họ Công. Nét mặt mệt nhọc, ông lạnh lùng đáp lời:
- Yêu công lý như tôi, tôi không giết ai hết!
- Tuyệt diệu quá!
Xúc động tột bực, Mặc Tử nghiêng mình cúi chào họ Công hai lần, sau đó, bình tỉnh lấy lại, ông thêm:
- Hãy để ta có ít lời muốn nói với nhà ngươi. Khi tới phía Bắc, ta được biết nhà ngươi đã sáng chế ra thang mây để đánh nước Tống. Nước Tống khốn khổ đó đã phạm lỗi gì? Nước Sở có dư thừa đất đai, dư hơn sự cần thiết; có chăng là thiếu người. Giết người trong khi thiếu người để chiếm thêm đất đai mà đất thì đã dư thừa, có phải đó là bằng chứng của sự thông minh? Nước Tống không phạm một tội nào cả; vậy nếu đánh Tống, đó có phải là bằng chứng của lòng nhân đạo? Biết rõ những dự định này mà nhà ngươi lại không phản đối, người đời có thể nghĩ ngươi là một trung thần được sao? Phản đối mà không thay đổi được gì, vậy ngươi đâu thật có oai quyền? Thờ công lý, nhà ngươi từ chối giết một người, nhưng ngươi lại muốn giết hàng muôn hàng vạn con người khác; người ta có thể nói nhà ngươi hành động hợp lý không? Nhà ngươi nghĩ sao?
Công Thâu Ban suy nghĩ, ngập ngừng:
- Vì rằng... rằng... thưa ngài, ngài hoàn toàn có lý!
- Trong trường hợp đó, có thể nào nhà ngươi từ bỏ những ý định đó không?
Công Thâu Ban trả lời, giọng tiếc nuối:
- Tuyệt nhiên không thể được! Nhà Vua đã được thông báo cả rồi...
- Vậy thì hãy đem ta đến gặp nhà vua, thật là đơn giản mà!
- Dạ, nhưng trễ quá rồi. Chúng ta sẽ đi sau bữa ăn trưa.
Nhưng Mặc Tử không kham nổi sự chờ đợi. Thân người cứng ngắc của ông cứ nghiêng về phía trước, có vẻ sẵn sàng đứng dậy để đi. Biết rằng không thể ngoan cố mãi được, Công Thâu Ban đành nhận đưa Mặc Tử vào gặp vua tức thì. Ông đi về phòng thay y phục và giầy. Ông thành thực với khách:
- Thưa ngài, xin ngài hãy thay y phục này đi. Ở xứ này không như bên mình, lịch sự là việc phải có trong mọi lãnh vực; ngài có muốn mặc y phục này không?
Mặc Tử vui vẻ trả lời, cũng tránh lối nói vòng vo:
- Sẵn sàng, sẵn sàng! Quả thực, ta cũng không thích mặc giẻ rách, nhưng thường ta không có giờ rảnh để thay thổ.
IV.
Danh tiếng của Mặc Tử, hiền giả miền Bắc, từ lâu đã đến tai vua nước Sở (21), và theo lời yêu cầu của Công Thâu Ban, cuộc bệ kiến được nhà vua cho phép mà không gặp một khó khăn nào. Trong tấm áo thụng quá ngắn, Mặc Tử có vẻ giống một con chim lộ cẳng dài, ông đi theo Công Thâu Ban đến một tòa nhà trong cung điện, kính cẩn lạy nhà vua theo đúng sách lễ nghi, xong ông liền diễn thuyết:
- Hãy tưởng tượng có người kia coi thường cỗ xe ngựa của mình mà lại thèm muốn cái xe xập xệ của hàng xóm: không thích quần áo gấm vóc đang có để rình mò cái áo cộc vải thồ của hàng xóm; bỏ qua gạo thịt ngon nhà mình để thèm thuồng cái bánh bao nửa mọt cưa nửa cám của người hàng xóm. Ngài nghĩ gì về người đó?
Nhà vua thành thật trả lời:
- Chắc chắn người đó mắc bệnh hay cắp vặt.
Mặc Tử nói tiếp:
- Vương quốc nước Sở đất vuông 5 ngàn dặm; trong khi nước Tống chỉ rộng có 5 trăm: đó cũng là sự so sánh giữa cổ xe ngựa và cái xe xập xệ. Nước Sở có hồ Vân Mộng là nơi sinh sống của nhiều đàn tê giác, nai và hươu, nước Sở có sông Trường giang và Hán giang đầy cá, ba ba và cá sấu. Không một miền nào có thể sánh với nước Sở về tài nguyên. Còn nước Tống, chim trí cũng không mà cả thỏ lẫn gạc nai có tìm cũng chẳng thấy. Ðó là sự so sánh giữa lúa gạo và thịt ngon với bánh bao nửa mọt cưa nửa cám. Trên lãnh thổ nước Sở, nào là thông tùng cao lớn, nào là đậu, bách hương, long não mọc khắp nơi; còn nước Tống chẳng một cây cối nào còn sống. Ðấ là một so sánh giữa đồ gấm vóc với áo cộc vải thô. Theo thiển ý hạ thần, nếu tấn công nước Tống nghe theo lời bàn của quần thần của ngài, thì cũng chẳng khác gì người mắc tật vừa nói.
Vua nước Sở gật đầu đồng tình:
- Nhà ngươi nói không sai! Nhưng Công Thâu Ban đang chế cho ta cái thang mây; chúng ta phải tấn công vì không thể làm khác.
Mặc Tử trả lời:
- Việc sáng chế chưa chắc sẽ thành công. Nếu nhà vua có sẵn gỗ cắt thành hình khối, chúng ta có thể thử thang mây đó ngay bây giờ.
Vua Sở vốn thích đồ mới lạ, tỏ ra thích thú với đề nghị trên, liền ra lệnh đem gỗ khối đến. Mặc Tử cởi dây thắt lưng bằng da, xếp lại làm thành, mặt lồi hướng về phía Công Thâu Ban, với ý đó là thành phố phòng ngự kiên cố. Sau đó Mặc Tử chia các khối gỗ làm hai, một phần đưa cho Công Thâu Ban, ông giữ lại phần kia: hai khối gỗ đó là khí giới tấn công và phòng vệ.
Hai bên bắt đầu tấn công nhau, giống như một bàn cờ tướng. Quân đột kích tiến lên, quân phòng thủ phản ứng lại; nếu một bên tấn công thì bên kia lui quân. Vua nước Sở và đám quần thần không hiểu bàn cờ đó có ý gì.
Họ thấy Công Thâu Ban công thành 9 lần, Mặc Tử chống đỡ 9 lần; có thể là hai phe đối nghịch đã thay đổi chiến lược chín lần. Sau lần thứ chín, Công Thâu Ban bèn bỏ cuộc. Lúc đó Mặc Tử thay mặt lồi của giây thắt lưng để trước mặt ông, lúc này trận đấu bắt đầu trở lại, lúc tiến lúc lùi. Ðến trận đấu thứ ba, các khối gỗ của Mặc Tử đã tiến vào bên trong thành lũy.
Vua nước Sở và quần thần vẫn không hiểu gì hơn: nhưng khi nhìn thấy Công Thâu Ban lui khối gỗ thứ nhất với vẻ mặt thất vọng, họ đoán là ông đã thất bại trong vai phòng thủ cũng như trong vai đột kích; nhà vua hơi lộ vẻ thất vọng.
Công Thâu Ban lên tiếng, bối rối ra mặt:
- Dĩ nhiên tôi biết cách để thắng ông, nhưng tôi không nói ra lúc này.
Mặc Tử bình tỉnh đối đáp:
- Ta cũng biết cách ngươi chống ta rồi; nhưng ta cũng không cho ngươi biết lúc này.
Nhà vua ngạc nhiên, hỏi lại:
- Hai nhà ngươi nói chuyện gì vậy?
Mặc Tử quay về phía nhà vua cắt nghĩa:
- Công Thâu Ban có ý muốn giết hạ thần. Hắn tin rằng một khi dẹp thần xong, sẽ chẳng còn ai để bênh vực nước Tống, và hắn sẽ đi đến cùng việc gây chiến. Nhưng một đệ tử của thần tên Cầm Hoạt Ly cùng ba trăm đệ tử khác đang có mặt ở kinh đô nước Tống với phương tiện phòng thủ của họ, chờ đợi ở trên thành. Dù Ban có giết thần, hắn cũng không thể chiếm được thành phố.
Nhà vua cảm động kêu lớn:
- Phương pháp nhà ngươi hay thật! Trong trường hợp đó, quả nhân từ bỏ ý định tấn công nước Tống.
V.
Sau khi gặt hái thắng lợi, Mặc Tử có ý trở về nước Lỗ sớm; nhưng trước hết ông phải trả lại áo quần Công Thâu Ban đã cho mượn và lấy lại áo quần của ông. Chiều đã xuống. Cả hai đều bị bao tử giằng co vì đói. Công Thâu Ban mời khách của mình đi ăn trưa, đúng ra là đi ăn tối, vì trời đã tối, và mời khách ngủ lại qua đêm.
Mặc Tử thoái thác:
- Ta phải về ngay hôm nay thôi. Sang năm, ta sẽ trở lại hiến sách vua Sở (22).
- Há ngài chẳng áp dụng công lý cho mình sao? Làm cứng thân mình và mệt lý trí, giúp người bị hiểm nguy, cứu giúp người khốn khổ, đấy là những ưu tư của tiện dân, là những việc mà người thế phiệt khinh thường. Ôi Người đồng hương ạ, hãy biết rằng ông ta là vua!
- Không hẳn như vậy. Tơ lụa, vải gai, lúa gạo, cây kê, là do người hạ tiện làm ra nhưng được người thế phiệt chấp nhận; huống hồ là sự áp dụng lẽ phải.
Công Thâu Ban kêu lên:
- Thật vậy! Trước khi tiếp ngài, tôi muốn chinh phục nước Tống, bây giờ, nếu có ai đem cho tôi nước Tống, tôi sẽ từ chối ngay, ngoại trừ trường hợp đó lại là một việc phải.
Mặc Tử mừng rỡ tột độ:
- Vậy thì ta thành thật dâng nước Tống cho nhà ngươi. Nếu mà nhà ngươi áp dụng lẽ phải không bao giờ chán nản thì ta dâng cả thiên hạ cho ngươi.
Trong khi hai người thân mật chuyện trò, mâm ăn đã được dọn ra: nào cá, thịt, nào rượu đế. Mặc Tử không đụng tới cá và rượu, chỉ dùng một ít thịt. Công Thâu Ban uống rượu một mình. Thấy người khách của mình ít đụng tới dao và muỗng, ông có vẻ ngượng, bèn mời dùng ớt:
- Cầm lấy trái ớt, cầm lấy! Hãy thử xem! Không tệ lắm đâu. Dù rằng tỏi tây ở đây nhỏ hơn bên mình.
Xong vài cốc rượu đế, Công Thâu Ban càng nổi hứng:
- Ðể hải chiến, tôi đã sáng chế ra loại cây lao móc nạng và cây giáo. Công lý của ngài cũng có giáo và lao chăng?
Mặc Tử cả quyết:
- Giáo và lao của công lý của ta giá trị cao hơn lao và giáo dùng cho hải chiến của nhà ngươi. Ta đâm lao với lòng kiêm ái; ta đẩy lùi với lòng tôn kính. Người nào đâm lao mà thiếu lòng thương, người đó liền không bao giờ có tình yêu. Người nào chống trả mà thiếu lòng tôn trọng, người đó sẽ phải đi quanh co trật đích. Thiếu kiêm ái, đi quanh co, những việc đó sẽ đưa đến những chia rẽ tức thời. Yêu mến mọi người, tôn trọng nhau, là sống thiện. Nếu nhà ngươi tấn công với cây lao móc nạng, nhà ngươi sẽ bị trả đũa lại bằng cây lao móc nạng, nếu ngươi đột kích bằng ngọn giáo, nhà ngươi sẽ bị chống trả bằng ngọn giáo. Dùng lao đâm nhau, dùng giáo đâm nhau, chính là tự hại lẫn nhau. Ðó là lý do tại sao giáo và lao của công lý ta chủ trì có giá trị hơn giáo lao dùng cho hải chiến của nhà ngươi.
- Nhưng thưa đồng hương, công lý theo lối đó, ngài suýt làm bể nồi cơm của tôi!
Công Thâu Ban liền nói sang đề tài khác vì lý luận ông vừa bị bác nghị, nhưng ông cũng hơi tái người. Thực vậy, ông không quen uống rượu. Mặc Tử trả lời:
- Nhưng nếu làm bể nổi cơm của toàn dân nước Tống thì còn tệ hại hơn nữa!
- Từ nay trở đi, tôi sẽ không làm gì khác hơn là chế tạo đồ chơi. Tôi sẽ đưa ngài xem vài món.
Rời chỗ ngồi, Ban sấn về căn phòng trong hốc lục lạo trong một cái rương. Một lúc sau, ông trở lại trên tay cầm một con ác là (23) làm bằng gỗ và lác tre.
- Chỉ cần xoay cái nút này, chim sẽ bay được tới ba ngày; đây là một kỹ xảo tuyệt vời.
Mặc Tử nói:
- Tuyệt hơn cả tài anh thợ đóng xe đã sáng chế ra bánh xe.
Cầm nhìn qua con chim, ông bỏ xuống lại trên chiếu, ông tiếp lời:
- Người thợ đóng xe bào ba đốt (24) gỗ, số gỗ bị bào bỏ có thể nặng tới 50 tấn. Cái gì đem lại lợi ích cho con người có thể được gọi là kỹ xảo và tốt lành; còn cái gì không làm lợi cho con người phải được coi là vụng dại, tức là không tốt.
Công Thâu Ban lại thêm một lần nữa bị bối rối, tỏ ra tỉnh tảo hơn:
- Ồ! Tôi lại quên mất! Ðáng ra tôi phải tưởng tượng ngài sẽ nói gì rồi!
Mặc Tử tỏ ra thân thiện hơn, nhìn mặt Công Thâu Ban và nói:
- Vậy nếu nhà ngươi tiếp tục thực hành lẽ công bằng, không những ngươi sẽ có biệt tài tuyệt vời, mà cả thiên hạ sẽ lệ thuộc nhà ngươi. Ta xin lỗi đã làm phiền nhà ngươi gần cả ngày nay, sang năm chúng ta sẽ gặp lại nhau.
Nói xong những lời đó, Mặc Tử cầm lấy gói đồ ăn và chào từ biệt. Công Thâu Ban biết trước khó lòng mà cầm chân thầy Mặc, đành chịu để ông ra đi. Ðưa thầy ra tới cửa, ông trở về phòng riêng, suy nghĩ giây lát rồi đi lấy thang mây cùng con chim ác - là dẹp vào rương hòm ở trong phòng cuối nhà.
Trên đường hồi hương, Mặc Tử bước đi chậm chạp. Trước hết, ông đã mệt; sau nữa, chân ông phần rướm máu phần nổi bọng nước làm ông đau đớn cả người; hơn nữa, hết đồ ăn, ông đói lã yếu người đi; và cuối cùng việc đã xong, ông hết còn vội vàng như khi ra đi. Chuyến trở về nhà của ông còn xui xẻo hơn nữa; vừa qua khỏi biên giới nước Tống, ông đã bị xét hỏi hai lần. Ðến gần kinh đô, ông lại rơi vào tay một đám người tự xưng là "Ðạo quân lạc quyên cứu quốc" quyên góp luôn tấm vải bố của ông đã rách. Ðến gần cửa thành Nam, ông lại gặp cơn giông lớn. Ông muốn tránh mưa dưới cửa thành thì lại bị hai người lính tuần cảnh tay cầm thương có hai tai, đuổi ra khỏi cửa, do đó ông bị ướt lạnh thấu xương, và sau đó ông phải nghẹt mũi cả mười ngày vì bệnh cảm màng óc.
Lỗ Tấn
Tháng 8 - 1934
Nguyễn Vy Khanh chuyển dịch
*****
CHÚ THÍCH:
(1) Mặc Tử đưa ra thuyết "Phi Mệnh" vì ông không tin có định mệnh; họa phúc ở đời đều do kết quả của hành động mỗi người, vì theo ông nếu mọi người nghĩ có số mệnh thì rồi chẳng ai chịu cố gắng và hoạt động cả.
(2) Mặc Tử chủ trương "tiết táng" và "phi nhạc": "Tiết táng" tức là tần tiện trong việc chôn cất và tang trở gọn gàng. Còn "Phi Nhạc" là chống lại mỹ thuật, âm nhạc mà theo ông là những xa xỉ, tốn kém, không sinh lợi và làm mất thì giờ.
(3) Mạnh Tử (372-289 trước công nguyên): Triết gia thời Tiên Tần, người nước Lỗ; được coi là á thánh nối nghiệp Khổng tử phát huy Nho giáo. Sanh sau Mặc Tử, ông coi đạo Mặc làm hại Nho giáo, ông là người bài xích Mặc học nặng nề nhất.
(4) Dương Chu: người thời chiến quốc, học trò Lão Tử nhưng đi xa, chủ trương vị kỷ chủ nghĩa tức chỉ biết yêu thân mình mà không biết đến nghĩa "tri thân" tức bỏ mình mà thờ vua. Người đời sau coi ông "khinh vật trọng sinh" và "hưởng lạc cực đoan".
(5) Do đó không yêu kính cha mẹ hơn người ngoài; người thân thiết ngang hàng với người ngoài đường, do đó Mạnh Tử xích bác là không có cha.
(6) Sách Mạnh Tử, thiên Ðàng Vân Công, hạ.
(7) Sách Mạnh Tử, Tận Tâm, thượng.
(8) Sách Mạnh Tử.
(9) Trang Chu (369-288 trước Công nguyên?) vừa là triết gia vừa là nghệ sĩ siêu đẳng của thời Chiến quốc, tác giả bộ Trang Tử được Lỗ Tấn dành riêng một truyện trong tập Cố Sự Tân Biên này.
(10) Thiên "Mặc Tử Tuân Khanh" ở đoạn cuối, chỉ dùng 24 chữ để nói về Mặc Tử.
(11) Tử Hạ tức Bốc Thương, đệ tử của Khổng Tử. Khi Khổng mất, ông về dạy học ở Tây Hà (nay là Hà Nam) được vua Ngụy Văn Hầu tôn làm thầy và đặt quan bác sĩ để học Ngũ Kinh. Nho giáo trở thành quốc giáo cũng là khởi đầu từ đấy.
(12) Sách Mặc Tử, thiên Kiêm Ái.
(13) Canh Trụ Tử: học trò Mặc Tử, được thầy chỉ định đi làm quan cho nước Sở. Thiên 46 sách Mặc Tử mang tên ông (Canh Trụ).
(14) Lấy ý từ sách Mạnh Tử.
(15) Nước Việt, sau khi chiếm đoạt nước Ngô, trở thành láng giềng nước Sở.
(16) Tức Hồ Nam ngày nay, lúc bấy giờ Cảnh Công là vua nước Tống.
(17) Như đã trình bày trong phần giới thiệu, Lỗ Tấn dùng diễn văn của Tào công tử để nhạo thái độ hàng giặc của chính phủ Quốc dân đảng nhưng khi diễn văn thì hùng hồn, rỗng tuếch, nói mà không dám làm.
(18) Học trò Mặc Tử ba năm, tương truyền ông được nghe thầy Mặc giảng cho thuyết "Tiên chất, hậu văn" (trước thực chất, sau văn vẻ). Ông là đệ tử được sách vở sau này nhắc đến nhiều nhất.
(19) Vì về sau có sách cho rằng Công Thâu Ban là tên hiệu của Lỗ Ban vốn được coi là ông tổ nghề thợ mộc.
(20) Gọi là "Vân thê" (thang mây), vì đây là một kiểu thang cơ khí đưa lên rất cao như đụng mây, do xe chở, rất tiện khi tấn công các thành lũy cao.
(21) Tức Sở Huệ Vương.
(22) Về sau, Mặc Tử có trở lại hiến sách cho Sở Huệ Vương; nhưng vua Sở khen mà không dùng, sai Mục Hạ nói lại là vì vua già nên từ chối. Sau đó, vua Sở lại sai Văn Quân đi tìm Mặc Tử phong cho ông năm trăm dặm đất, nhưng ông không nhận, cứ đi thẳng...
(23) Còn gọi là con Khướu là loại chim hót nhiều như nói, bởi vậy có thành ngữ "nói như khướu" để chỉ người nói nhiều.
(24) Ðơn vị đo chiều dài xưa, khoảng 27 cm.