vhnt, số 163
20 March 1996
Trong số này:
thư vhnt................................................................PCL
T h ơ :
1 - Bến sông xưa ...........................................Chuy Sước
2 - Về những phía rừng ........................................lephan
3 - Vết tình buồn ..........................................Ðức Lưu
4 - Ði chơi quên kiếng ..................................Phan Lê Dũng
5 - Chiều nay dốc xoải .....................Trương Nguyễn Thi Thanh
6 - Cảnh cũ ......................................................Cỏ Nhớ
V ă n H ó a / Â m N h ạ c :
7 - Nghĩ về ca khúc Trịnh Công Sơn ...........................Bửu Ý
8 - Phỏng vấn ban tam ca Áo Trắng ................................TTCN
9 - Tin Tức Văn Học ..................................................DL
T r u y ện N g ắn / T ùy B út :
10- Chủ khách ..............................................Lư Ngọc Dung
11- Chân dung hạnh phúc ..........................................CỏMay
12- Mưa ...............................................................Minh
"không ai tạc tượng cho người chuyên bình phẩm"(*)
Monsieur Derrida cho rằng tất cả mọi câu mọi chữ trong những sách đọc, đều có thể trở thành một "luận đề" cho một bài biên khảo phê bình. Nghĩa là sao nhỉ? Có lẽ người bình luận một sáng tác là người duy nhất để ý đến từng câu từng chữ trong bài viết, trong lời thơ, còn hơn cả chính tác giả sáng tác ra nó? Một tác phẩm cho dù có danh tiếng là một tuyệt tác từ bao lâu nay, đến một ngày nào rồi cũng có những nhà phân tích phê bình tìm ra cái không hay, sẽ đưa ra một lập luận bác lại cái hay được công nhận từ trước tới nay. Một quyển sách có thể bị bỏ quên cả hàng trăm năm không có ai động đến, không ai thèm đọc, đến một ngày nào rồi cũng sẽ "tìm" được đúng người đọc nó, một thứ định mệnh đã an bài, một thứ "duyên" giữa sách và người đọc. Luật đào thải của tự nhiên và duyên phận của chữ nghĩa đi liền với nhau . Một quyển sách hay mà tác giả không tìm cách phổ biến được, không tìm ra được nhà xuất bản nào để in, thì số phận của nó sẽ bị vùi dập theo thời gian một cách oan uổng. Làm sao có thể biết được có bao nhiêu thiên tài đã bị chôn vùi vì duyên nghiệp không may, không được ai biết tới. Kẻ khám phá ra những thiên tài, cũng là một thiên tài chứ chẳng thường. Những nhà phê bình gia, là một thành phần độc giả đặc biệt có óc nhận xét tinh vi, chuyên chẻ sợi tóc ra làm tư, bẻ từng chữ từng câu ra thành những tiểu luận đề, chính là những thiên tài theo nghĩa riêng.
Vậy mà, có rất ít các phê bình gia được người ta biết đến. "Không ai tạc tượng cho những kẻ chuyên bình phẩm kẻ khác", đó là một lời than thở đầy vẻ cay đắng của Saint-Beuve, một nhà phê bình văn học, trước khi ông chết.(*)
thân ái,
PCL/vhnt
Bến Sông Xưa
Chị xõa tóc gội dòng sông Ðuống
Bên lở bên bồi
Tóc đỏ vị phù sa
Ngày em đi chị chèo đò bến khác
Sim tím chiều còn chát môi ai
Sáo diều khuya gọi trăng hiu hắt
Xa mờ sâm sẫm Thiên Thai
Em soi xuống lòng sông không thấy bóng
Giọt nào tròn tỏa sóng
Giọt nào riêng đọng mắt
ngược về đâu
Em bỏ đi tìm
Ðường trần bập bềnh mơ ảo
Ngỡ Thiên Thai
tỉnh giấc lạnh lầu hoang
Tranh "Hứng dừa" chị đem đi bán
Mây mẩy tròn bầu nước dốc ngày thơ
Xác pháo tan đè nát mộng hờ
Mờ sương khói bóng chìm đường xưa cũ
Ðò ơi...
Dòng sông bên lở bên bồi...
Chuy Sước
Về Những Phía Rừng
Bỏ mặc những lâu đài diễm tuyệt sau lưng
Tôi đi về những phía rừng trước mặt
Người ta bảo rằng
rừng đã cháy
Mặc,
Tôi vẫn nhất quyết đi,
muốn nhìn thấy sự thật
bằng đôi mắt
Con đường dẫn qua một vùng biển đục
Nước mặn len lỏi vào những vết nứt
Ðã chai sạm một tâm hồn
Ðêm mênh mông không nói được một nỗi buồn
Ðôi tay chèo chống mãi không thấy tới
Tôi không nhìn thấy tôi
trên dòng nước lạ
Và trăng đã không lên
suốt mấy đêm qua
Con đường dẫn vào một tận cùng sa mạc
Cát nóng như thiêu dưới bước chân khô
Thân thể nặng nề như một xiềng xích ngục tù
Và tôi sợ đến nỗi phải nghoảnh lại nhìn
Một chiều tắt nắng
Ngọn lửa đỏ ối ở cuối chân trời
Những vết chân đổ dài
như vết máu
dường như của ai
Con đường lại dẫn đi
qua bao phố thị, làng mạc
không một ai hiểu những gì trước mặt
Ðể rồi ở một giây phút không ngờ nhất
Tôi thấy một ven rừng
trước mắt
Cách một thung lũng
hoa nở trắng lối sang
Tôi sững sờ cúi mặt,
chợt biết
Mình vốn đã ở rừng
Và rừng quả thật đã cháy
Ngọn lửa hừng hực đỏ ngọn
Và tôi ngẩng mặt
thấy mình là cây đuốc
Chợt muốn gào lên một tiếng
như một mãnh thú
cô độc
Giữa rừng già,
ngày âm thầm đi qua ...
lephan
Vết Tình Buồn
Có những chiều vương nắng cuối thôn
Nàng ngồi lặng lẽ để tâm hồn
Thơ thẩn trôi vào trời dĩ vãng
Quãng đời thơ mộng thuở còn son.
Nàng nhớ ngày xưa, nhớ ngày xưa
Ngày xưa hay thắt bím đuôi rùa
Bên bờ sông vắng, cùng lũ trẻ
Nàng đã nô đùa dưới nắng trưa.
Tuổi ngọc hồn nhiên chẳng bâng khuâng,
Chẳng mơ trăng gió, chuyện xa gần.
Thấm thoát... Một hôm rồi họ lớn,
Mơ nghĩ xa vời chuyện ái ân...
Cả hai gói ghém một tình yêu
Sau luỹ dừa xanh, dưới mái lều
Một đàn con trẻ vây chân bố
Bên giòng sông bạc nắng cô liêu
Con tạo khen thay vẫn quấy rầy
Duyên lòng há vẹn, vốn xưa nay.
Gác lại những gì ưu ái nhất,
Hắn tìm sự nghiệp chốn xa baỵ
Ừ, mối tình kia cứ một mai
Vì ai toan tính chuyện tương lai
Nên đã nén lòng như chẳng thấu
Có kẻ từng đêm vẫn thở dài.
Mấy mùa mai rụng, cúc sầu rơi
Nàng vẫn tương tư, vẫn đợi người.
Hắn hờ hững quá! Hay hắn vẫn
Yêu nàng, nên mới phải vậy thôi?
Ðã có đôi lần hắn bảo nàng
- Hãy về toan tính chuyện sang ngang,
Ðừng chờ nhau nữa. Ðời con gái,
Chớ để hương phai nhạt, phấn tàn.
Nàng chỉ thoáng buồn rồi lặng i
Ðôi giòng lệ nhỏ sẽ lăn êm
Giữa đôi gò má xanh xao nhạt
Của những đêm dài thức trắng đêm.
Rồi từ hôm ấy, nàng đã đi.Mang cả đau thương, cả những gì
Hai đứa hẹn hò bên sông vắng
Gạt giòng châu lệ bước Vu-quy.
Nàng tuy khăn mới về bên chồng
Nhưng chiếc khăn hồng dạo bên sông
Ngày xưa trao tặng, nàng chắc vẫn
Thêu kín vào kia một tấm lòng?
* * *
Và thế, giòng đời vẫn cứ trôi
Rửa tan vết mực đọng trong đời
Người con gái nhỏ ngày xưa ấy
Theo những năm dài trong đãi bôi.
Nàng sống bây giờ vẫn quạnh hiu
Chẳng thiết đau thương, chẳng hận nhiều,
Chuyện lòng dang dở ngày xưa đã
Theo giòng sông bạc chảy cô liêu.
Riêng hắn âm thầm mang nỗi đau
Tìm thơ ghép lại mối duyên đầu
Vào những đêm dài mư rơi lạnh
Não nùng ôm chặt vết thương sâu
Và những đêm trăng lạnh lạnh buồn,
Sầu đông chẳng rộ một mùi hương
Chỉ rơi lác đác vại hoa trắng
Vẽ hộ cùng ai bức hoạ buồn.
Thầm tự nhủ lòng sống quạnh hiu,
Chẳng màng mơ nghĩ chuyện tình yêu,
Chuyện xưa, thôi kể là kỷ niệm
Sưởi ấm lòng khi tuổi xế chiều.
Ðức Lưu
Đi Chơi Quên Kiếng
Chiều nao đi chơi quên kiếng
Nhìn những tín hiệu quanh đường
Dẫu nhỏ to
Vẫn chỉ là những làn mờ nhạt
Chiều nao đi chơi quên kiếng
Về ngang trời rộng mênh mang
Thấy mây quay cuồng biến chuyển
Tưởng về những bóng dã tràng
Bé nhỏ,
Mang mang
Lầm lũi, lang thang
Mỏi mòn góc biển...
Chiều nay đi chơi quên kiếng
Nhìn những tín hiệu quanh đường
Nhạt phố, nhạt phường
Nhạt tên, nhạt bảng
Chỉ đậm một khối nhạt màu
Lõa lồ mù quáng.
Chiều nay đi chơi quên kiếng
Muôn việc đều quên.
Những xuống những lên
Những rã rời hụt hẫng
Tưởng về những mộng ngày xưa
Thấy những hạt mưa
Miên man đọng hạt...
Phan Lê Dũng
Chiều Nay Dốc Xoải
Nhớ lắm ngày xưa tóc em mây
phủ kín lòng ta những đêm dài
chiều nay dốc xoải, mưa nhiều quá!
ướt ngập hồn ta nỗi trắng tay!
Nếu biết có ngày em xa tôi
mây kia xin một mỏng manh trời
ồi mang ghép gán vào thương nhớ
thương nhớ lớn dần -- em với tôi
Em hãy là mây, chỉ là mây
đừng bao giờ khóc, mà cứ bay
dừng chân chi nữa, lòng ta dột
ngấm mãi niềm riêng lắm đọa đày
Trương-Nguyễn Thi Thanh
Cảnh Cũ
tôi về bãi trước, vườn sau
ngày qua, tháng vội, năm mau mất rồi
gặp người, chỉ gặp người thôi
bể dâu còn lại tiếng thưa gởi buồn
gặp người, chẳng gặp người thương
gởi thưa chi tiếng đoạn trường gió ơi.
Cỏ Nhớ
Nghĩ Về Ca Khúc Trịnh Công Sơn
Tình yêu. Quê hương. Thân phận. Làm sao nói về những vấn đề này bằng lời hát và chuyên chở bằng nhạc, những ưu tư thường trực của mọi người và được mọi người ít nhiều nói đến? Trịnh Công Sơn có cách nói riêng, bằng lời và bằng nhạc. Lời tách riêng, đó là những đoạn thơ hoặc là truyện thơ tâm sự về giọt mưa, giọt nắng, về một vùng biển đầy ắp sự vắng mặt... Nhạc tách riêng, có khi nhún nhảy như loại đồng dao hay thanh bình ca, có khi lại rất thích hợp với ánh đèn màu và không khí của vũ trường, cũng có khi dòng nhạc Trịnh Công Sơn gần gũi với thánh ca thanh thoát. Nhiều nhạc sĩ viết về tình yêu và quê hương. Tình yêu, với Trịnh Công Sơn, là diễm tình. Trước hết là phải đẹp, đẹp trong từng lời bội bạc, bước chân quay gót, trong dang dở và tan vỡ. Sẽ không có mối tình rách rưới hay nhầy nhụa, sẽ không có mối tình than khóc lâm ly, sẽ không có luôn cả khổ đau, hoặc nếu có chăng nữa thì đó là một nỗi đau khổ đã dành sẳn và cần được siêu sắc nuôi dưỡng cái giống nòi tình. Cái đẹp ở đây là ca 'i đẹp siêu thực, tức là ít nhiều nhuốm màu sắc của kẻ chủ trương và đồng thời nhạt bớt hương vị của thường tình. Tình yêu lên ngôi. Một đỉnh chiêm ngưỡng hay đúng hơn là một điểm hẹn. Ðối tượng tình yêu rấp ranh trở thành ý niệm. Trịnh Công Sơn tình nguyện làm kẻ hái lộc chứ không phải hái trái. Lộc nõn và luôn cả lộc xoang ngọn tố trở trời. Tình yêu được thăng hoa để trở thà nh điểm ngắm. Nó vượt qua cái riêng tư, vị kỷ. Như đức giáo hoàng của "ái tình giáo", người nghệ sĩ lớn tiếng hô hào mọi người "Hãy Yêu Nhau Ði". Ðây là lời thần chú mở cửa địa đàng. Ðây mới thật là tình yêu cứu rỗi. Yêu trong một tình yêu rộng lớn, chung cùng. Như mỗi giai điệu trong đại hợp tấu. Yêu nghĩa là tỏa sáng. Phần nào giống như thủ pháp "nhuộm mây nẩy trăng" theo cá ch gọi của Thánh Thán (vẽ mây đẹp để làm nổi bật trăng), Trịnh Công Sơn ca ngợi tình yêu bằng cách vẽ ra vùng ảnh hưởng của tình yêu qua giọt nắng thủy tinh, cây cầu, hạt mưa, hàng cây chụm đầu vào nhau... Khi vẽ ra "áo xưa lồng lộng" chẳng hạn, tác giả không vẽ vạt áo, mà vẽ kỷ niệm, vẽ không khí và hơi hám của áo. Ðó là những mối tình nở ra trong khói lửa, như những cánh hoa xương rồng giữa khô cằn gai góc. Bóng đen chiến tranh càng làm cho tình yêu thêm phần gấp gãy.
Quê hương nổi bật ở hai nét lớn: nghèo và chiến tranh. Cái nghèo của quê hương thì có lắm chuyện để nói, để tả, để mủi lòng. Cái nghèo còn là hậu qủa của chiến tranh. Dứt chiến tranh là cứu giải cái nghèo. Và chiến tranh không phải diễn ra ở chiến trường, không phải do những người cầm súng, nó diễn ra ở bàn tròn, ở trong lòng người, ở trong đầu óc những con người buôn bán chiến tranh. Những bài hát trong hai tập CA KHÚC DA VÀNG và KINH VIỆT NAM, cũng theo phép "nhuộm mây nẩy trăng" như có nói ở trên, nhưng ở đây được trưng dụng những màu sắc hoàn toàn điên đảo, không nhằm miêu tả hay tường thuật chiến tranh, mà vẽ ra những phóng xạ của chiến tranh. Giá anh trực tả chiến tranh, sức vận động và thuyết phục sẽ khác đi. Anh không nói ngay vào chiến tranh, anh nói chung quanh và lên trên chiến tranh. Do đó, đến khi chiến tranh kết liễu, nhạc anh vẫn tồn tại, vì nó vẫn còn công lực cảnh giác. Hình ảnh "người nô lệ da vàng", vốn làm phật ý những ngưới "quốc gia chủ nghĩa", là một lối "cưỡng từ đoạt ý" rất kiến hiệu trong việc thiếp lập đối thoại ban đầu. Ðây là một bước lùi giữa hai bước tiến, gần như là phương sách tự chuốc nhục của con người muốn đối phó với ti `nh hình đất nước nguy kịch đến độ chiến tranh không đủ để tiêu diệt chiến tranh, vũ lực không đủ để tiêu diệt vũ lực, mà trớ trêu thay phải có nghệ thuật hỗ trợ, và nhất là nghệ thuật trong nghệ thuật. Ngay giữa chiến tranh, anh đã vẽ ra thời buổi sau chiến tranh mà con người có quyền hưởng thụ và có nghĩa vụ tô bồi. Những dự phóng này nảy nở trên nền tảng làm bằng những ám ảnh mất mát, cái bấp bênh của những gì hiện có, nỗi bất lực không yêu được bội phần.
Giữa một nền trời như vậy, thân phận con người là một vấn nạn. Ta nên nói ngay : đây là một chủ đề tư tưởng, nếu không muốn nói là triết lý. Chủ đề được đề cập, phân tích , lý giải tư ` Ðông sang Tây, nhưng là do những nhà tư tưởng, triết gia và những nhà viết văn xuôi đề xướng. Giữa cõi vô thường, bị thướng trực kềm kẹp bằng một nỗi "khó sống", người nghệ sĩ trong những phút xuất thần tự đồng hoá với các vật thể vạn thú trong đời sống: có khi ta là tên mục đồng, là lá cỏ, là cơn gió, có khi là giọt mưa tan giữa trời, là hòn cuội, con sâu. Nhưng trong khi cỏ suốt đời là cỏ, cuội trọn kiếp làm cuội, thì con người mỗi phút mỗi chực vong thân.
Trịnh Công Sơn chắp cánh cho tưởng tượng, và tưởng tượng len lỏi vào các hóc hẻm của đời sống, khiến cho anh sờ mó đến sự vật nào là sự vật ấy dường như bớt thật và trở nên lung linh bằng mô .t quầng mộng ảo. Cho nên anh đi trước người khác một bước: ngạc nhiên trước người khác; mừng reo hay tư lự cũng trước người khác. Cái "có" đang nằm trong tay, anh đã sống với cái "mất" nó rồi. Ðoá hoa nào đi qua lòng anh cũng trở thành đẹp hơn vẻ đẹp thật, và đóa hoa đương độ lại nhuốm vẻ não lòng của héo uá. Sự sống bước giật lùi mỗi giây như hình ảnh cuốn chiếu. Trịnh Công Sơn qủa quyết "Chỉ Có Ta Trong Một Ðời" và dứt khoát chọn lựa: sống. Sống hết mình. Không khất hẹn, không chờ đợi , không ủy quyền. Anh vâng theo cái mệnh lệnh "hãy tận hưởng ngày hôm nay" của thi sĩ Horace mà cố cách vặn lùi thời gian, sống chong chong, thu rút giấc ngủ, thót người trước cảnh tượng "Thành Phố Ngủ Trưa" (Ðe ^m Thấy Ta Là Thác Ðổ), xem giấc ngủ như một cái dợm chết ("Hôm Nay Thức Dậy, Ôi Ngẩn Ngơ Tôi", Xa Dấu Mặt Trời), tự đánh lừa mình bằng cách "Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui" để rêu rao cuộc đời đáng sống.
Phải ôm cho hết cuộc đời nhị nguyên cồm cộm này, bao gồm những cặp phạm trù khó dung nạp nhau nhưng khó thể phân ly: sống chết ("Chết Từng Ngày Sống Từng Ngày", Buồn Từng Phút Giây), buồn vui ("Buồn Vui Kia Là Một", Nguyệt Ca), hạnh phúc khổ đau ("Hãy Trao Cho Nhau Hạnh Phúc Lẫn Thương Ðau", Hãy Yêu Nhau Ði), tình yêu mật ngọt mật đắng (Lặng Lẽ Nơi Này)... Cái mặt phải và mặt trái của sự vật sao mà kề cận nhau đến thế, như đêm ngày , nhật nguyệt, như sum họp với chia phôi. Khổ cho kẻ nào chủ phân biệt! Phải quên đi những ám ảnh tuổi tác ("Chập Chờn Lau Trắng Trong Tay", Chiếc Lá Thu Phai) và chuẩn bị tinh thần cho cái phút sau rốt của đời người:
... "Một Trăm Năm Sau Mãi Ngủ Yên" (Sẽ Còn Ai)
... "Mai Kia Chào Cuộc Ðời" (Những Con Mắt Trần Gian)
... "Một Hôm Buồn Lên Núi Nằm Xuống" (Tự Tình Khúc)
... "Một Lần Nằm Mơ Tôi Thấy Tôi Qua Ðời" (Bên Ðời Hiu Quạnh)
Người nhạc sĩ này đặc biệt sâu nặng với những tính từ "Ðời Bềnh Bồng", "Môi Rồ Dại", "Bóng Lung Linh", "Một Vòng Tiều Tụy","Phố Xá Thênh Thang","Mắt Xanh Xao", "Hồn Xanh Buốt", "Ðêm Thần Thoại", "Cành Bão Bùng"... Những hình dung từ này cùng chung một thể thái, hay còn gọi là đồng vị (isotopie) và trở đi trở lại hơn một lần qua bài hát. Trong số này, có tần số xuất hiện cao nhất là "Mong Manh" (Tình Mong Manh, Gió Mong Manh, Cỏ Lá Mong Manh, Sống Chết Mong Manh, Những Ðoá Mong Manh, Tay Gối Mong Manh, Nụ Cười Mong Manh...), như thể là một ám ảnh lớn trong vũ trụ quan và nhân sinh quan của nhạc sĩ. Lời, trong ca khúc, chiếm vị trí hàng đầu. Riêng lời trong ca khúc Trịnh Công Sơn đã tạo ra tên tuổi Trịnh Công Sơn. Lời ở đây là truyện thơ, là hình ảnh siêu thực, nét chấm phá, những hoa gấm cho sóng nhạc. Và có những giây lát cao độ, lời được cách hoá thành Kinh. Kinh là những lời ước nguyện nhằm chuyển hóa thực tại. Kinh là tinh túy của lời được kinh qua sản xuất , tái sản xuất, lập đi lập lại để cuối cùng kết tinh dưới hình thức đơn khiết, cô đọng. Trong ca khúc Trịnh Công Sơn, ta nhận ra người mẹ cầu kinh, người lính cầu kinh, người thiếu nữ yêu đương cầu kinh. Những lời kinh gửi gắm cho một đấng vô hình, siêu nhiên nào chăng? Không, đây là một loại kinh do chính mình phát nguyện, đóng tiếng và gửi gắm trở lại cho chính mình. Hay nói cách khác, đây chính là một loại tâm kinh hay một loại độc thoại nội tâm tự khẳng định. Câu kinh có cái sức mạnh của phận mình , nhưng khổ nổi nó không phải là thực tại, cũng không có hy vọng biến thành thực tại nốt! Thật ra tất cả sức mạnh của cầu nguyện đều tích tụ trong tư thế chuẩn bị cầu nguyện kèm những động tác đơn giản tầm thường. Người mẹ cầu nguyện cho con ở chiến trường có nghĩa là cầu nguyện cho mình có đủ sức mạnh đối phó với tình huống bất trắc, và sức mạnh ấy phát sinh từ ngọn "đèn thắp thì mờ" giữa đêm khuya , chẳng hạn; người lính cầu nguyện bằng động tác đầu tiên là rời cây súng; thiếu nữ cầu nguyện cho mối tình của mình ở bờ sông và lời kinh này sẽ làm bằng im lặng, gió trời và kỷ niệm .
Trên đây là một số cảm nghĩ về Ca Khúc Trịnh Công Sơn, những cảm nghĩ vụn rời thiếu thừa không rõ, vừa chắp nối vào những bài viết khác, vừa gợi mở những bài viết về sau chung quanh đề tài này. Một đề tài tát không cạn.
Bửu Ý
Một ít điều về người viết Bửu Ý: Bửu Ý, trước hết, là một người bạn thân của Trịnh Công Sơn, người đã cùng chung với Trịnh Công Sơn trong những cuộc chơi, cuộc rượu suốt hơn 30 năm qua. Bửu Ý là một giáo sư Pháp văn ở trường Ðại Học Huế, là một nhà viết kịch, nhà phê bình, dịch thuật rất có tiếng. Bửu Ý đã từng dịch truyện "Con Lừa Và Tôi" và "Nhật Ký Anne Frank", được nhiều ngừời ca ngợi bởi cái tài hoa trong dịch thuật của ông. (người chú thích: Chinh)
Phỏng vấn Tam Ca Áo Trắng
Sài Gòn có thật nhiều các nhóm hợp ca, nhưng có lẽ đến nay Tam Ca Áo Trắng (TCAT) với Minh Tú, Minh Thư và Tuyết Ngân vẫn đang là nhóm được giới trẻ ưa chuộng nhất. Chính vì thế mà mỗi khi hợp tuyển của họ xuất hiện là chẳng bao lâu nó lại có tên trong danh sách các album ăn khách nhất.
Sự nũng nịu của tháng ngày thiếu nữ mộng mơ, vương vấn chút hồn nhiên dễ thương của tuổi bé con, khiến cho những bài hát của TCAT luôn có phong cách thật lạ. Thế nhưng không có nghĩa ba chị em Minh Thư, Minh Tú, Tuyết Ngân là những người thành công nhờ sự may mắn. Có nghe mới thấy được sự phối hợp công phu của các bè, của từng câu hát lót, hát đuổị... mà chỉ có sự kiên nhẫn và yêu nghề mới giúp cho TCAT có được phong độ như vậy. Với những album, video từ bên nhà gửi qua, hy vọng các bạn bên đây đã đôi lần được nghe và thấy ba cô gái thật dễ thương này.
Sau đây là bài phỏng vấn Tam ca Áo Trắng do báo Tuổi Trẻ thực hiện với những câu hỏi do các bạn đọc gửi về.
Dung Nguyen
TAM CA ÁO TRẮNG: SẼ MÃI HÁT VỀ MỘT THỜI ÐẸP NHẤT
- Khi các bạn hát những ca khúc về thời áo trắng, các bạn có thật sự mang những cảm xúc của quá khứ tuổi học trò vào trong bài hát không? Hầu hết các ca khúc của các bạn đều nhẹ nhàng và vui tươi, các bạn có một nguyên tắc nào trong việc chọn lựa tác phẩm để ra mắt?
- Khi hát những ca khúc về thời áo trắng, chúng tôi cảm thấy rộn ràng với những ngày tháng đã qua và sắp tới vì Tam Ca Áo Trắng (TCAT) vẫn đang cắp sách đến trường. Khi hát, TCAT không biết chắc là các ca khúc đó có đem lại sự nhẹ nhàng và niềm vui tươi cho khán giả không. Song một nguyên tắc của TCAT trong việc lựa chọn tác phẩm là phải "cảm" và "ngộ" được những cung điệu và lời ca của tác giả.
- Làm sao các bạn có thể giữ mãi những nét đẹp hồn nhiên trong sáng của tuổi học trò khi mai này các bạn đã bước qua cái tuổi đó? Hết tuổi áo trắng các bạn vẫn giữ tên gọi ấy hay sẽ lại đổi tên? Và đổi tên gì. Các bạn rất dễ thương với bộ áo dài trắng nhưng các bạn có nghĩ rằng cứ với trang phục đó mãi thì sẽ bị nhàm chán không? Và đâu cứ phải mặc áo dài trắng thì mới đúng tính chất của tuổi học trò?
- Sự hồn nhiên trong sáng của tuổi học trò sẽ không già đi dù mai này chúng tôi sẽ không còn trẻ nữa. Ba chị em sẽ hát mãi về lứa tuổi học trò, một thời kỳ đẹp nhất của đời người với tên gọi TCAT cho đến khi nào không còn hát được nữa. TCAT thường mặc áo dài trắng chứ không phải luôn luôn và còn mặc đầm, mặc váy với nhiều màu sắc khác nữa đấy! Nhưng trang phục áo dài sẽ hợp hơn với những bài hát mà TCAT thường chọn và đó chính là biểu trưng của lứa tuổi học trò, của người phụ nữ Việt Nam. Hạnh phúc thay khi mà cho đến nay TCAT vẫn chưa thấy áo dài trắng nhàm chán.
- Tại sao phải là tam ca mà các bạn không tự mỗi người tìm cho mình một phong cách riêng và hát đơn trên sân khấu? Ðó là do ý thích hay là do các bạn không thể làm khác được? Sự nổi tiếng có bao giờ ảnh hưởng đến tình bạn, tình yêu của riêng mỗi người không? Nhất là khi các bạn đã trở nên nổi tiếng?
- Là ba chị em ruột đã quấn quít với nhau từ thuở nhỏ nên có những điều, những việc tưởng như đơn giản mà cũng phải ba người chúng tôi mới nói được hết ý, phải ba người làm mới hoàn thành. Cho đến khi học hát và đi hát cũng phải chung với nhau. Ðó vừa là ý thích mà cũng vừa do khả năng nữa. Khi chưa được biết đến nhiều mà TCAT đã cảm thấy khó xử trong những trường hợp "riêng", "chung" lẫn lộn chứ đừng nói gì đến hôm nay. Dù chung nhau tất cả, mỗi đứa vẫn có một cuộc sống khá riêng tư. Và điều này cũng bình thường như bất cứ những chị em khác đang ở chung một nhà.
- Các bạn là những người thành công ngay từ buổi đầu ra sân khấu chuyên nghiệp, vậy các bạn cho rằng mình thật sự thành công là do những cố gắng và nỗ lực của riêng mình hay là do nhận từ một sự nâng đỡ, sự quen biết nào đó trong hậu trường? Ba má và gia đình đã đóng vai trò thế nào trong việc ca hát và học tập của TCAT? Làm sao TCAT có thể làm tốt cả hai việc đó, và có thật sự làm tốt cả hai được không? Các ca sĩ luôn đi tìm một nhạc sĩ "ruột" để có được những bài hát đúng chất giọng của mình. TCAT đã tìm thấy một nhạc sĩ nào thích hợp thật sự với mình chưa? Nếu có thì là ai?
- Những việc mà TCAT đã đạt được đến nay đều từ cái duyên với âm nhạc. Thuở nhỏ thì học hát, tập hát rồi tham gia phong trào ca hát. Sau đó các anh chị, thầy cô, các nhạc sĩ dìu dắt hướng dẫn TCAT bước lên sân khấu. Khái niệm "hậu trường" rất xa lạ với TCAT. Ba má là những người đã truyền sự say mê nghệ thuật vào tâm hồn của TCAT. Những hoạt động sôi nổi suốt thời trai trẻ của ba má ở vùng Ðồng Tháp Mười nên thơ đã trở thành những chất liệu nghệ thuật sống động nuôi dưỡng ba chị em. Những thử thách khắc nghiệt ở vùng chiến tranh ấy cũng đủ để ba má dạy cho TCAT phải biết học đến nơi đến chốn. Dù vậy TCAT vẫn chưa làm tốt việc nào cả. TCAT rất may mắn và hạnh phúc là được rất nhiều nhạc sĩ "ruột" luôn luôn hướng dẫn và dạy dỗ theo đúng nghĩa của nó. TCAT chỉ biết theo thầy chứ không dám chọn thầy. Còn tấm lòng của các thầy thì vô lượng. Nhóm "Những người bạn" đã dìu dắt TCAT từ buổi đầu chập chững đi theo tiếng gọi huyền hoặc của âm nhạc với tất cả sự say mê.
- Theo các bạn thì yếu tố nào quan trọng nhất để đưa một ca sĩ, một nhóm hoà ca lên đỉnh vinh quang? Mọi người nói rằng muốn thành công đều phải trả một cái giá nào đó. Với sự thành công của các bạn hiện nay thì các bạn đã phải trả một cái giá nào chưa? Có thể tiết lộ chút ít về cái giá phải trả đó không? Có bao giờ các bạn tiếc nuối vì đã trả giá cho sự thành danh của mình không? TCAT có tự xếp mình vào lớp những người thành đạt không hay các bạn vẫn còn phải đối diện với nhiều khó khăn của cuộc sống, vì sao?
- Theo thiển ý, yếu tố quan trọng nhất ngoài kỹ năng thiên phú và sự luyện tập gian khổ, là sự trung thành với tác giả, tác phẩm và khán giả. Người hát phải biết nói với khán giả một cách trung thực và chân thành những suy nghĩ của tác giả trong một tác phẩm. TCAT chưa dám tự nhận là đã thành công cả trong việc học hành và ca hát nên vẫn chưa nhận ra cái giá mà chính mình phải trả. Có chăng là đã "lỡ" trở thành người của công chúng mộ điệu. TCAT phải nỗ lực từng ngày, từng giờ để khỏi phụ lòng người khác. Như đã nói từ đầu, TCAT đang vật lộn với bài vở và những chương trình tập, diễn tất bật mỗi ngày.
- Với các bạn, ca hát là nghề nghiệp hay chỉ là một trò chơi? Giả sử mai này sân khấu có thêm nhiều tam ca khác, các bạn có nghĩ là mình sẽ bị khán giả thờ ơ? Chọn nghề ca hát nhưng không quên "bảo hiểm" cho mình bằng cách theo học đại học, có phải các bạn cũng cảm thấy sự bấp bênh của nghề nghiệp mình và luôn dọn sẵn một lối thoát cho mình?
- Khán giả sẽ thờ ơ ngay nếu TCAT đánh mất chính mình, thiếu tôn trọng khán giả, nhạc sĩ và tác phẩm chứ không cần phải đợi một tam ca nào khác xuất hiện. Và dù có thật nhiều tam ca, thì mỗi nhóm sẽ chọn cho mình một chỗ đứng trong lòng người hâm mộ. Ca hát chưa phải là nghề nghiệp và lại càng không phải trò chơi đối với TCAT. Ca hát đang là niềm đam mê không dứt của TCAT. TCAT chưa bao giờ có ý thức chọn ca hát làm nghề nghiệp của mình. Cuộc sống âm nhạc đã cuốn hút TCAT trôi theo những sinh hoạt thú vị của nó. Và khi bước vào cổng trường đại học, TCAT cũng chưa nghĩ đến nghề nghiệp trong tương lai. Một lời dạy của ba má TCAT là "học để làm người và trở thành con người hữu ích". Còn tương lai? Có lẽ một nghề nào đó sẽ chọn TCAT.
- Nếu phải lựa chọn giữa hai tình huống đi diễn ở nước ngoài với thù lao cao và diễn phục vụ cho quần chúng trong nước theo yêu cầu của lòng hâm mộ, thì các bạn quyết định ra sao? Bạn có âu lo gì không với tình trạng sân khấu ca nhạc luôn bị hút theo xu hướng kinh doanh, và giới trẻ thì không hề có một sân khấu riêng nào cho hoạt động ca nhạc của mình? Nghề ca hát có thu nhập cao so với các nhạc sĩ. Các bạn nghĩ sao về luật bản quyền - khi người hát phải trả tiền cho tác giả? Các bạn có thấy khó chịu vì phải giảm thu nhập của mình do vấn đề đó không?
- Ðược diễn ở nước ngoài với thù lao cao ai cũng thích cả chứ không riêng gì TCAT. Thường xuyên ca hát với các khán giả trong nước và thỉnh thoảng đi diễn ở nước ngoài thì sung sướng lắm chứ. Có lẽ ngày nay không ai đặt ra thử thách nghiệt ngã đến thế đâu. Dạo gần đây TCAT thấy ngày càng có nhiều sân khấu ca nhạc đứng đắn. Ở góc độ nào đó kinh doanh đâu có đồng nghĩa với điều xấu xa. Ðiều đáng trách là vì đồng tiền mà xem thường nghệ thuật, bán cả lương tri và lòng tự trọng. Có sân khấu ca nhạc nào chỉ dành cho giới này mà không dành cho giới khác. Nghệ thuật âm nhạc là thành quả chung và ở bất cứ độ tuổi nào sự thưởng ngoạn cũng đều giống nhau. TCAT vẫn coi các nhạc sĩ là người thầy và cũng chưa bao giờ nghe những người thầy đó than phiền về thu nhập của mình và người khác, có chăng là những mong muốn được đánh giá đúng và dầy đủ về lao động nghệ thuật của họ. TCAT hoan nghênh và mong chờ bất cứ luật nào đó trả lại đúng vị trí của các nhạc sĩ trong sự tôn vinh của công chúng âm nhạc.
- Có bao giờ các bạn nghĩ rằng sẽ dùng sự thành công của mình trên sân khấu để hướng vào mục đích đóng góp một điều gì đó cho xã hội không?
- Ðã hát trên sân khấu dù được thù lao bao nhiêu đi nữa thì mình cũng đã đem lại niềm vui cho nhiều người, cũng là "đóng góp một điều gì đó cho xã hội" rồị Nếu phải đóng góp thêm nữa cho xã hội, TCAT sẽ đóng góp sự nhiệt thành và lao động cật lực của TCAT đối với nghệ thuật nếu TCAT còn trên sân khấụ TCAT chỉ kỳ vọng mọi người làm trọn việc của mình để xã hội sẽ tốt lên.
(TTCN 7-1-1996)
Cùng quý bạn hữu (nếu nguồn tin cộng đồng chưa kịp phổ thông cùng quý bạn)
Tờ THỜI LUẬN báo, số ra ngày thứ Năm, 14-03-1996, phát hành tại Los Angeles, CA đã chia buồn cùng nền VHNT hai cái tang lớn:
(1) GS Hoàng Xuân Hãn, vị học giả lão thành nổi tiếng của nền văn hoá dân tộc đã từ trần hôm 10-03-1996, tại Paris, Pháp quốc, hưởng thọ 88 tuổi. Ðược biết ông là vị học giả nổi tiếng vì ngoài những nghiên cứu, khảo luận VH nổi tiếng (La Sơn Phu Tử của Quang Trung, Hạnh Am Thi Cảo của Nguyễn Thiếp - ra mắt khoảng đầu thập niên 50's, công trình nghiên cứu dịch thuật xem giữa Phan Huy Ích và Hồng Hà nữ si sĩ Ðoàn Thị Ðiểm, ai là người đã phiên dịch Chinh Phụ Ngâm Khúc...), GS còn có sự cống hiến lớn cho giới phôi thai khoa học VN thời bấy giờ qua bộ từ điển Danh Từ Khoa Học.
(2) Hai ngày sau, 12-03-1996, GS - Nhà báo Chử Bá Anh cũng đã từ trần tại tư gia, Burke, VA, Mỹ quốc. Hưởng thọ 63 tuổi. Ông có tầm hoạt động mạnh trong giới báo chí VN hải ngoại. Soạn thảo CBANews tin tức, cộng tác Phụ Nữ Diễn Ðàn tạp chí, và luôn có vai trò đóng góp tích cực trong những cuộc hội đàm, khảo luận có tính cách báo chí.
GS Hoàng Xuân Hãn ngần ấy tuổi mà vẫn chưa nguôi chí nghiên cứu VH (Kiều của Nguyễn Du), thì sự ra đi của GS Chữ Bá Anh quả là một thiệt thòi lớn cho nền VHVN nói chung và tại hải ngoại nói riêng vậy.
Đức Lưu
Chủ Khách
Tôi đang lang thang giữa những đường phố tấp nập của khu trường đại học. Những con đường đông đúc người và hàng quán. Những quán sách, những nhà hàng fast food, những quán kem và các quán cà phê nhỏ nhắn xinh xắn với vẻ náo nhiệt trông thật giống những vòng vàng nữ trang tô điểm cho thành phố yên tĩnh mang đậm sắc thái của dân da đỏ ở vùng này. Những người vô gia cư đứng rải rác đây đó bên lề đường rao mời những đặc san đường phố. Số tiền tùy hỉ của khách bộ hành có lẻ không đủ cho họ một bữa ăn đàng hoàng ở những nhà hàng loại trung.
- Chào anh. Mời anh đọc một số báo đi.
Ông lão da đen đứng trước quán Mc. Donald tươi cười nhìn tôị Tôi khá quen mặt ông. Ngày nào tôi cũng thấy ông đứng đây đón chào mọi người vồn vã. Tôi cầm lấy tờ báo và móc túi đưa cho ông $.50 tiền lẻ. Ông cười thật hiền:
- Cám ơn. Cám ơn.
Ai bảo là những kẻ "ăn ngủ đầu đường xó chợ" dữ tợn? Cũng có người này người kia mà thôi! Lắm lúc ông lão gợi cho tôi nhớ đến sự tương phản của những hàng người ăn xin ngồi dọc các nấc thang của núi Bà Ðen, Châu Thới trong mùa hành hương, những cảnh chen chúc đánh lộn vì vài đồng tiền bố thí của những thành viên cái bang trước các cổng chùa Xá Lợi, Vĩnh Nghiêm trong các ngày lễ lớn... Ai khiến họ ra nông nổi?
Tôi rẻ ngang con đường Harvard. Ở đây có các quán sách nhỏ bán đủ các loại sách xưạ Nắng ấm. Gió mát. Những cành cây gầy guộc của mùa đông đã trĩu nặng đầy hoạ Một ông cụ với râu tóc trắng tinh đứng trước quán Bođhi vái chào tôi theo kiểu cách của người Ấn Ðộ. Ông trông có vẻ là người Trung Hoa thì đúng hơn. Ông thấp giọng bảo tôi:
- Xin thí chủ hãy ghé vào quán ăn của chúng tôị Quán chúng tôi có lệ là vào ngày Phật đản sẽ đãi cơm trưa người khách bộ hành đầu tiên ngang qua đâỵ
Tôi bật cười và bảo thầm: "Free food, why not?" Theo ông cụ tôi bước vào quán. Quán ăn thật nhỏ với khoảng độ chục bàn. Những nồi đồ bóng loáng của lunch buffet đặt ngay cửa ra vàọ Mùi thơm thoang thoảng của những món đồ chay tinh khiết thật hấp dẫn. Không có những bức tranh trang trí xa xỉ. Tất cả chỉ là cành lá của cây bồ đề mà thôi.
Ông cụ ngồi tiếp chuyện với tôi. Ông bảo:
- Quán lấy tên là Bođhi là vì tôi vốn gốc đạo Phật. Ngày xưa, đức Phật thành đạo dưới gốc cây Bồ Ðề, nên đối với dân Ấn, cây Bồ Ðề là một loại cây thiêng. Hơn nữa, hình ảnh cây Bồ Ðề cũng gợi nhớ đến lời dạy của lục tổ Huệ Năng của Trung Hoa:
Bồ đề bổn vô thọ
Minh cảnh diệc chi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhá trần ai
Càng nói chuyện với ông, tôi càng ngạc nhiên. Ông giống như một Krishnamurti đang bàn luận những vấn đề về cuộc sống và tôn giáọ Ánh mắt sâu thẳm mang vẻ xa xăm bình an của ông như lục tìm trong tôi những khúc mắc, tháo bỏ những trói buộc của muôn đời.
-Xem ra cậu suy tư hơi nhiều
Ông bình phẩm và lắc đầu. Tôi thừa nhận:
- Làm thế nào để không suy tư?
- Cái gì khiến cậu suy tư? Có câu rằng vô minh thật tánh tức Phật tánh. Cứ mê ở đâu, thì ngộ ở đô Tất cả những gìvề cuộc sống bình thường làm cho cậu phải suy tư đều là phiền nãọ Nếu cậu cứ hướng nội, hồi quang phản chiếu thì phiền não sẽ thành bồ đề.
- Thế nào là hướng nội?
Ông im lặng. Một lát, ông lấy một củ hành đặt trước mặt tôi và bảo:
- Lột đi.
Tôi nhún vai làm theọ Tôi lột bỏ từng lớp, từng lớp vỏ. Cuối cùng, lõi tận cùng phía trong cũng biến mất. Ông cụ lúc đó mới nhướn mắt nhìn tôi. Lại là im lặng...
Những phút im lặng trôi qua. Tôi nhìn ông, ông nhìn tôi. Chúng tôi dường như hai địch thủ đang đọ mắt và chuẩn bị xăng tay áo đánh lộn một mất một còn. Ðoạn, ông phá ra cười nắc nẻ. Ông cười như chưa bao giờ được cười. Ông cười đến chảy nước mắt. Rồi ông mới bảo:
- Trong mỗi người đều tồn tại một viên kim cương, bảo châụ Nếu bỏ công đi tìm thì sẽ tìm thấy. Ðã đến giờ cậu đi rồi. Nên nhớ, trong cậu và trong tất cả mọi người đều ẩn dấu những điều huyền diệu, đẹp đẽ nhất. Không phải ở ngoài. Chỉ vì vô minh che lấp mà con người không thấy nó mà thôi.
Tôi lẩm nhẩm "Không phải ở ngoàị Không phải ở ngoài". Thật là kỳ lạ! Những câu nói của ông khó hiểu như chính ông vậy. Ông ở trước mắt tôi mà như không hiện hữu. Ông trông có vẻ xa lạ mà lại thân thiện với tôi như đã quen biết tự bao giờ. Thoáng trông ánh mắt nghi ngờ của tôi, ông cười bí hiểm:
- Ta với cậu không hai không khác.
Nụ cười bí ẩn đó đeo đuổi tôi đến tận bên ngoài. Nắng dường như rực rỡ hơn. Hoa như biết nói, cây như biết cười. Sức sống của mùa xuân như tràn khắp mọi nơi, trong từng con người, từng đồ vật. Tôi quay lại ngắm nhìn căn quán nhỏ. Nó trông thật bình dị, yên tĩnh, chìm hẳn trong cảnh ồn ào náo nhiệt của các hàng quán bên cạnh. Boddhi. Ðó là danh từ thiêng liêng; thiêng liêng mà bình dị. Tôi tự nhủ: "Rồi tôi sẽ trở lại. Phải, tôi sẽ trở lại.".
BCCB
Lư Ngọc Dung
Chân Dung Hạnh PHúc
Tôi nhìn ra ngoài. Chiều đã về. Buổi chiều xé rách một ngày qua. Ðời sống với những uẩn ức, buồn thương, ngạt thở cứ thế mà trôi, trôi mãi.
Tiếng hát Khánh Ly vẫn mượt mà sương khói: "không hẹn mà đến, không chờ mà đi..." và tôi như đang nhìn thấy những bóng người đã lướt qua đời tôi, sẽ lướt qua đời tôi, lướt qua mà không bao giờ ở lại.
Tôi nhớ có lần anh bảo tôi:
"sao em không viết? "
"viết gì bây giờ"
"hạnh phúc", anh nói. Cà phê đắng không làm tôi tỉnh ngủ bằng cái đề tài anh đưa ra. Anh nói rằng tôi chưa bao giờ viết một cái gì vui cả, sao không thử một lần xem. Tôi đã quẳng bút sau nữa ngày ngồi im trước tờ giấy trắng, và bảo anh: "em chả nặn ra chữ nào cả ". Anh giận dỗi: "thế những gì giữa chúng mình không phải là hạnh phúc sao? Tình yêu cũng là một khuôn mặt nào đó của hạnh phúc, em không thấy vậy sao?"
Và tôi đã lặng im .
Tôi đọc ở đâu đó: "Hãy thong dong cho để thanh thản nhận, hãy ung dung mất để hạnh phúc còn...", và lơ mơ tôi tự hỏi rằng tại sao chưa "cho" đã nghĩ đến chuyện "nhận", chưa "mất" đã nghĩ đến chuyện "còn"? Ở cuộc đời bi thống này có hạnh phúc không, hay đó cũng chỉ là một trò chơi của xảo trá của ngôn từ?
Hạnh phúc có lẽ cũng mong manh như tình yêu, chỉ đong đưa đầu lưỡi, chỉ chơi vơi đầu môi. Những thứ đó chỉ đẹp khi ta ở xa xôi mà vọng về. Cõi người ta từ khước những nghi ngờ. Tôi đã từ lâu đánh mất niềm tin nên chơ vơ lắm bến bờ tôi.
Chiều nay tôi bỗng nhớ về những người đã ghé qua đời tôi, và tôi đã mỉm cười với dĩ vãng. Họ đã cho tôi nỗi buồn, nhưng họ cũng đã cho tôi những niềm vui. Lòng tôi bỗng dịu lại: hóa ra hạnh phúc là được sống. Hạnh phúc không có chân dung.
Hạnh phúc đã hoá thân vào cuộc sống, vào niềm đau khổ, nỗi cô đơn, sự tuyệt vọng... của con người, và vì thế cuộc sống cũng đẹp tuyệt vời như một vì sao ./.
Cỏ May
Mưa
Này em đã khóc chiều mưa đỉnh cao
Còn gì nữa đâu sương mù đã lâu
Em đi về chiều mưa ướt áo
Ðường phựợng bay mù không lối vào
Hàng cây lá xanh gần với nhau
(Mưa Hồng - Trịnh Công Sơn)
Có lẽ mưa là một trong những "người bạn" thân thiết nhất trong đời tôi. Từ những trận mưa muà hè không dứt ở quê nhà cho đến những cơn mưa bóng mây ở đây, tôi luôn cảm thấy ấm lòng nhìn mưa bay trong khoảng không và bay mãi vào hồn. Mỗi lần mưa đến, tâm hồn tôi như hòa nhịp với đất trời dạo theo tiếg mưa rơi đi hành hương tìm về những cơn mưa cũ.
Mưa đến với tôi lần đầu tiên năm tôi lên năm. Tôi nhớ đêm đó tôi bị sưng răng không ngủ được và khóc "nhè" cả đêm. Mẹ tôi phải bồng tôi trên tay suốt năm canh, ru tôi ngủ. Và rồi mưa đến... Bạn có bao giờ nghe tiếng mưa đêm buồn buồn hòa với lời ru mẹ không? Ðối với tôi, đó là âm thanh thiên thần qúy giá nhất trong đời mình. Âm thanh đó đã xoa dịu cơn đau trong đêm của tuổi lên năm và giúp tôi vượt qua bao thăng trầm của đời sống.
Tôi bắt đầu chờ đợi những cơn mưa có lẽ từ đó.
Mưa ở Sài Gòn thường trở về vào cuối tháng Năm, khi năm học chấm dứt. Ngồi dưới mái hiên nhà chờ mưa mỗi buỏi chiều, tôi như đứa bé chờ mẹ đi chợ về. Hình như không có một người-Việt-bình-dân nào mà không một lần tắm mưa khi còn nhỏ. Tôi chờ mưa để được tắm mưa, giống như mọi đứa nhỏ trong cái xóm lao động nơi tôi ra đời và lớn lên đó. Chỉ nghe tiếng mưa rơi lộp độp trên mái tôn là cả đám con trai con gái nhóc tì ùa ra đường cười hớn hở. Mưa rơi trên tóc, trên vai, làm ướt mềm thân thể, làm mát mẻ con tim. Mưa hả hê băng mình qua những vạt cây làm cho lá cây xanh hơn bao giờ hết. Mưa dâng tràn trước mái nhà như biển như hồ. Bong bóng mưa nổi trên mặt nước rồi vỡ tan làm cả đám xuýt xoa nhớ tới câu chuyện gã phù thủy dùng tà phép kết bong bóng mưa thành chuỗi dâng vua để cướp nàng công chúa. Ðôi khi tôi mong mình được một lần trở về ngôi nhà cũ để nghe lại tiếng trẻ con cười giòn tan giữa cơn mưa hè.
Khi tôi lớn lên cùng năm tháng, mưa trở thành tha thiết hơn trong những câu hát sâu sắc cuả Trịnh Công Sơn và những lời văn nhẹ nhàng của Từ Kế Tường. Tôi nhớ một đêm Sài Gòn nào đó, bạn bè kéo nhau đi nghe Trịnh Công Sơn hát. Ðêm mùa hè bên cạnh ngôi trường con gái, một nhạc sĩ trẻ đã hát, "Tôi xin làm mưa bay, trong vườn em mùa hạ" và người nghe hình như say đắm hơn khi mưa bắt đầu rơi nhẹ trên những hàng me vây quanh. Tôi cảm thấy mình thật may mắn được ngồi giữa bạn bè trong phút giây ấy, được nghe tiếng guitar trầm lắng trên nền nhạc êm ái của mưa để quên đi những nhọc nhằn của đời sống. Bạn bè tôi có lẽ đã quên, nhưng cảm giác ấy vẫn tồn tại trong tôi một cách kỳ diệu cho đến hôm nay.
Mưa đã tặng tôi nhiều, nhiều lắm, và làm cho đời sống khô tẻ của tôi thi vị hơn. Những cơn mưa trong núi hào hùng bay trắng không gian, những cơn mưa Ðà Lạt mê man trên đóa quỳ vàng, những cơn mưa Ðà Nẵng sải dài lướt qua ngọn sóng Thu Bồn, những chiều mưa không dứt trên đường Tự Do, và mưa Nha Trang ướt sũng ngôi nhà thờ đá. Tôi vẫn mơ mưa Hà Nội lãng mạng qua lời văn trong sáng của Thạch Lam, mơ mưa Huế gõ nhịp trên cây sầu đông của Nhã Ca, và mơ mưa rừng Cà Mau mộc mạt lam lũ của Sơn Nam và Bình Nguyên Lộc.
Bởi vậy, tôi xin cảm ơn mưa.
Tôi vui chơi giữa đời
ối a biết đâu nguồn cội...
Tôi thu tôi bé lại
làm mưa tan giữa trời.
(Biết Ðâu Nguồn Cội - Trịnh Công Sơn)
Minh