vhnt, số 50
11 September 1995
Trong số này:
+ post 1 - thơ, Ðêm, Luân Hồ Triệu
+ post 2 - thơ, Trí Nhớ, Hình Ảnh, Ðường Bay, PCL
+ post 3 - thơ, Quỹ Đạo Tình Yêu, Nguyen Van Diem
+ post 4 - phỏng vấn, Danielle Steel, Dzung Nguyen
+ post 5 - truyện ngắn, Ba Vị Ẩn Tu, Leo Tolstoy / PCL dịch
Ðêm
Ðêm tàn bên ly rượu
Tri âm lạc cuối trời
Ói mửa vào lòng đất
Nuôi sâu bọ làm vui
Luân Hồ Triệu
11/9/95
Trí Nhớ
một người đi tìm trí nhớ
hỏi thăm chuyện của ngày xưa
hoa trắng gục đầu bên cửa
nhớ chi những chuyện ngày mưa
Hình Ảnh
có gì trong nắng mà nhớ
có gì trong mưa mà thương
có gì còn vương ánh mắt
hình ảnh mờ tựa khói sương
Ðường Bay
chợt thức giấc nhìn buổi sáng
màu xanh. xanh như thiên thu
ngậm ngùi nhớ đôi cánh gãy
đường bay mất dấu mịt mù
Phạm Chi Lan
1991
Quỹ Đạo Tình Yêu
Rằm tháng tám năm nay thơ mộng quá
Ngắm trăng tròn liên tưởng đến em yêu
Vì đam mê anh cặm cụi cả chiều
Cho xong việc người anh yêu trao gởi
Có phải yêu là nhớ nhung mong đợi
Để tơ lòng vương vấn với yêu thương
Thì xin em cứ chỉ lối dẫn đường
Cho anh lạc vòng yêu đương quỹ đạo
TTTN-KV
(09/10/95)
Cảm Hứng Từ Cuộc Sống Là Vô Tận
Daniel là ngôi sao trong số các nhà văn tiểu thuyết tình cảm bình dân. Cho đến ngày nay, các tác phẩm của bà đã được bán ra trên 300 triệu bản, được in bằng 50 thứ tiếng và phát hành ở 80 nước (nhiều tiểu thuyết của D. Steel đã được dịch sang Việt ngữ). Bà là người Mỹ, nhưng cũng sống nhiều ở Pháp. Các tựa sách của bà thường ngắn, chỉ gồm một từ (như STAR) và hiếm khi vượt quá ba từ.
Với mái tóc đen nhánh xõa xuống vai, đôi mắt xám lam, đeo nhiều nữ trang, bà trông giống như một nhân vật tiểu thuyết của chính mình. Sau đây là cuộc phỏng vấn D.Steel của tờ Télé 7 Jours ( và là lần đầu tiên bà chịu cho phỏng vấn).
- Ðiều gì khiến cho tác phẩm của bà nổi tiếng như vậy?
- Ðó là điều liên quan đến mỗi người chúng ta: các thử thách, các niềm vui, các cảm xúc.
- 47 quyển của bà, trong đó đã được xuất bản tại Pháp, đều chứa dồi dào tư liệu: chiến tranh 1939-1945 cho quyển "Chiến Thắng Của Đam Mê", xứ Việt Nam, nước Anh vào thế kỷ 18 cho quyển sắp ra mắt. Bà làm cách nào để có các tư liệu ấy?
- Một người bạn Mỹ lâu đời nhất của tôi (chúng tôi quen nhau từ hồi 13 tuổi) là cử nhân sử học, lãnh công việc tìm tài liệu cho tôi. Chị ấy du hành khắp thế giới để đến tận nguồn. Mỗi chi tiết mà tôi miêu tả đều được kiểm tra lại: bàn nghế, dầu thơm, bài trí, chiến tranh, trận đánh. Tôi không bao giờ bắt đầu câu chuyện mà không có mấy trăm trang ghi chú ấy.
- Mỗi năm bà cho ra đời hai tiểu thuyết. Bà viết chúng cùng một lúc?
- Tôi bắt đầu một quyển, vừa chấm dứt một quyển. Tôi có thể bước vào một câu chuyện mới bằng cách chuẩn bị xây dựng nó với các cảnh trí, thời kỳ, đồng thời đẽo gọt tác phẩm trước. Tôi rất tôn trọng sự hoàn hảo nên đọc đi đọc lại và sửa chữa mỗi bản thảo sáu, bảy lần. Trong các giai đọan ấy, tôi viết từ 18 đến 22 giờ mỗi ngày, trong một phòng nhỏ xíu của ngôi nhà chúng tôi ở California, bằng chiếc máy chữ hiệu Olympia sản xuất từ năm 1948-chiếc máy chữ mà tôi luôn luôn đem theo mình, để dùng khi có nhiều ý nảy sinh trong lúc du hành.
- Có bao nhiêu sách của bà được chuyển thể kịch bản truyền hình?
- Hợp đồng của tôi với hệ thống truyền hình NBC vừa kết thúc. Hợp đồng ấy cho phép họ có quyền khai thác nhiều tựa sách của tôi. Vì họ chưa dùng hết, nên năm nay NBC gấp rút thực hiện sáu phim.
- Bà có 9 đứa con, từ bảy đến 26 tuổi, một người chồng, sáu con chó, một ngôi nhà, một sự nghiệp văn sĩ có sách bán chạy nhất. Làm cách nào bà có thì giờ lo liệu cho tất cả những thứ ấy?
- Tôi tổ chức cuộc sống rất chặt chẽ, không để phí giây phút nào. Tôi đưa các con đến trường, tôi lắng nghe chúng, tôi đi nghỉ hè cùng các con, trong chiếc xe buýt có bố trí phòng tắm, nhà bếp, hai phòng khách, hai máy thu hình. Mặc dù tôi có hai người phụ việc nhưng chồng tôi gốc Ý, thích tôi tự làm bếp. Ðối với các con tôi, sự nghiệp của tôi chẳng có ý nghĩa gì mấy.
- Kết hôn nhiều lần, làm mẹ trong gia đình, đuợc khắp thế giới biết đến, cùng thành công to tát, bà có thấy vận mệnh của mình cũng lãng mạn, như các nhân vật nữ của mình?
- Tôi xem tất cả chuyện ấy là tự nhiên. Tôi muốn có một cuộc sống bình thường. Tôi cảm thấy mình là một phụ nữ như những người khác. Tôi đi ra ngoài, tôi không bao giờ để người ta phỏng vấn. Tôi ít tiếp xúc với bên ngoài ngoại trừ 500 lá thư nhận được hằng tuần mà thôi.
- Nguời ta nói bà kiếm được 25 triệu USD một năm. Ðúng không?
- Một năm, một tháng. một ngày. Người ta đã nói hết ráo rồi. Còn chính tôi thì chẳng biết và chồng tôi cứ hỏi tôi số tiền được suy đoán ấy đâu hết rồi.
- Chồng bà là độc giả đầu tiên?
- Anh ấy đọc sách của tôi ngay khi tôi vừa đánh máy xong, và các phê bình của anh rất nghiêm khắc (cười).
- Bà có thể sống một năm mà không viết không?
- Tôi sẽ phát điên lên. Cạn nguồn cảm hứng?... Tôi chưa hề gặp như vậy. Bởi vì cuộc sống, mà tôi lấy cảm hứng, là vô tận.
Chu Minh Thụy lược dịch
(TTCN 13/08/1995)
Dung Nguyen sưu tầm
Ba Vị Ẩn Tu
Khi cầu nguyện, đừng lập lại nhiều lần như những kẻ lắm lời, họ tưởng kêu khẩn nhiều sẽ được. Ðừng làm như họ vì Cha trên trời hiểu rõ những gì người cần trước khi người mở lời cầu xin.
- Matthew VI: 7,8 -
Vị giám mục có việc cần phải vượt đại dương từ Archangel đến ẩn tu viện ở Solovetsk, một nơi hẻo lánh. Trên cùng chuyến tầu có một số khách hành hương cũng đồng hành đến đấy viếng thăm và cầu nguyện. Cuộc hành trình thật êm ả và tốt đẹp. Gió lặng và thời tiết thật trong lành. Những khách hành hương lên cả trên boong tầu hong nắng, họ ăn uống và tụ họp thành nhóm nói chuyện vãn. Vị giám mục cũng có mặt ở trên boong lúc ấy. Ngài đi tản bộ và chợt chú ý một đám đông đang tụ quanh một thủy thủ ở gần nơi mũi tàu. Người thủy thủ đưa tay chỉ về phía biển như đang kể một chuyện gì. Giám mục dừng lại nhìn về hướng tay người thủy thủ chỉ, nhưng không thấy gì ngoài mặt đại dương lấp lánh trong ánh nắng chói lòa. Ngài tiến đến gần xem đám đông đang bàn gì, gã thủy thủ trông thấy ngài vội im bặt ngả mũ chào. Mọi người quanh đấy cũng cúi mình ngả mũ chào theo.
"Ðừng để câu chuyện gián đoạn vì ta," ngài nói . "Ta đến để nghe người đây đang kể chuyện gì mà có vẻ thú vị."
"Ông ngư phủ đây đang kể cho chúng tôi nghe về ba nhà tu khổ hạnh." Một người có vẻ bạo dạn nhất trong đám đông nói.
"Nhà tu khổ hạnh ư?" ngài hỏi, rồi tiến về phía cạnh thành tầu ngồi xuống một chiếc thùng gỗ. "Hãy kể ta nghe về những nhà tu khổ hạnh ấy, ta rất muốn biết về họ. Ông bạn vừa chỉ cái gì ở ngoài khơi kia?"
"Có một hòn đảo nhỏ ở ngoài đó," người đàn ông đưa tay chỉ về một điểm ở xa phía tay phải . "Ðó là nơi ba nhà ẩn tu sống cho sự cứu rỗi của linh hồn họ."
"Hòn đảo ở đâu? Ta không trông thấy gì cả." Giám mục nói.
"Ðó, thưa ngài, ở mãi tít đằng xa. Nếu ngài chịu khó nhìn theo ngón tay tôi chỉ. Ngài có thấy một đám mây nhỏ, ngay phía dưới đám mây chếch về mé trái có một vệt mờ, đó là hòn đảo của ho."
Vị giám mục cố gắng dõi mắt chăm chú nhìn nhưng vẫn không trông thấy gì ngoài một mặt nước sáng loáng hun hút.
"Ta không thể nhìn thấy được. Nhưng ai là những nhà ẩn tu trên hoang đảo đó."
"Họ là những vị thánh sống." Người ngư phủ nói. "Tôi cũng đã từng nghe nhiều về họ nhưng chưa bao giờ gặp mặt, cho đến một lần cách đây hơn một năm."
Người ngư phủ kể rằng lần ấy ông đi đánh cá ngoài biển rồi bị lạc vào một hòn đảo nhỏ vào lúc trời tối. Ông ta không biết mình đang ở đâu. Sáng ra, ông đi vòng quanh đảo và trông thấy một túp lều bằng đất sét, ông gặp một ông cụ già ở gần đấy. Có thêm hai ông lão nữa từ trong lều bước ra. Sau khi cho người ngư phủ lạc đường ăn uống và hong khô quần áo, họ giúp sửa chữa lành lặn chiếc thuyền trước khi cho thuyền trở lại ra biển.
"Trông họ giống như thế nào?" Vị giám mục hỏi.
"Một người nhỏ thó lưng còng, mặc chiếc áo dòng rách nát cũ mèm. Ông ta già lắm, có lẽ cũng đã ngoài trăm tuổi. Già đến nỗi râu bạc của ông đã lên mầu xanh rêu, nhưng ông cụ luôn tươi cười và khuôn mặt sáng láng đầy hào quang như những sứ thần từ thiên đình. Người thứ hai vóc dáng cao hơn, nhưng cũng đã già lắm. Ông lão mặc chiếc áo vải sờn rách của người nhà quê mầu vàng xám xỉn. Ông cụ là một người khỏe mạnh phi thường. Trước khi tôi kịp phụ giúp ông, ông đã lật ngược chiếc thuyền nhẹ nhàng như một cái thùng rỗng. Ông cũng rất tử tế và vui vẻ. Người thứ ba là người cao lớn nhất có bộ râu trắng như tuyết dài đến tận đầu gối. Ông trông thật quắc thước với cặp chân mày rậm vắt ngang trán, ông không mặc gì cả ngoài một mảnh khố cột ngang thắt lưng."
"Họ có nói chuyện gì với ông không?" vị giám mục lại hỏi.
"Hầu như họ hoàn toàn im lặng, họ nói chuyện rất ít ngay cả với nhau. Một người có thể chỉ biểu lộ bằng cử chỉ hoặc với cái nhìn và những người kia cùng hiểu ý. Tôi hỏi ông cao nhất rằng họ ở đây đã lâu chưa, ông nhíu mày lầm thầm điều gì đó trông có vẻ giận dữ, nhưng người già nhất đưa tay vỗ nhẹ tay ông nhoẻn miệng cười, ông cao nhất im lặng. Rồi chỉ có người già nhất nói: 'Xin thương xót chúng tôi,' rồi lại mỉm cười ."
Trong lúc người ngư phủ kể chuyện, tầu đã tiến gần hơn về phía hòn đảo .
"Kìa nhìn, bây giờ ngài có thể nhìn thấy rõ nó rồi đó. Xin ngài hãy nhìn xem," người đánh cá giơ tay chỉ về hòn đảo đang hiện ra trước mặt. Vị giám mục chăm chú nhìn theo và ngài nhìn thấy một vệt đậm rõ nổi trên mặt nước, đó là hải đảo của những nhà tu khổ hạnh. Sau một lúc nhìn đăm đăm về phía đảo, ngài rời mũi tàu tiến về phía sau phòng lái, ngài dừng lại hỏi người tài công đang điều khiển bánh lái .
"Hòn đảo đó tên là gì?"
"Ðảo đó, thưa ngài, nó không có tên. Quanh đây có rất nhiều những đảo nhỏ như thế."
"Có phải thật có những nhà ẩn tu sống trên đó cho sự cứu rỗi của linh hồn họ."
"Thưa ngài, có nghe lời truyền tụng như thế thật, nhưng tôi không chắc chắn có thật hay không. Những người đánh cá bảo họ có trông thấy, nhưng có thể họ chỉ đang đánh rối một cuộn chỉ."
"Ta muốn lên đảo gặp những nhà ẩn tu đó," vị giám mục nói. "Làm thế nào để đến đó được?"
"Tàu không thể đến gần đảo được," người tài công trả lời. "Nhưng có thể dùng thuyền nhỏ chèo vào trong đảo. Xin ngài gặp thuyền trưởng hỏi về việc này."
Người tài công cho mời thuyền trưởng đến.
"Ta muốn đến gặp những nhà ẩn tu trên đảo, xin vui lòng cho ta lên bờ." Vị giám mục yêu cầu .
Thuyền trưởng thật sự muốn can ngăn ngài, ông nói.
"Dĩ nhiên là được, nhưng thưa ngài chúng ta sẽ mất nhiều thì giờ. Và tôi cũng xin thưa với ngài rằng những người già trên đảo đó không đáng cho ngài nhọc công. Tôi nghe nói họ chỉ là những ông già khù khờ chẳng hiểu biết gì, họ không nói năng một câu nào, im lìm như những con cá ở trong lòng biển."
"Ta rất muốn được gặp họ," giám mục nói. "Ta sẽ chịu chi phí cho sự phiền phức và mất thời giờ. Xin chuẩn bị cho ta một chiếc thuyền nhỏ."
Không còn làm sao được, thuyền trưởng đành ra lệnh cho hạ buồm và buông tay lái, chực chỉ tiến về phía đảo. Họ đặt một chiếc ghế đằng mũi tàu cho vị giám mục ngồi. Ngài ngồi đấy nhìn về phía trước chờ đợi. Mọi người kéo nhau lên boong tầu dán mắt nhìn vào trong đảo. Nhiều người tinh mắt đã nhìn thấy những bờ đá lởm chởm trên bờ và chiếc lều bằng đất. Có người đã nhìn thấy cả những nhà ẩn tu. Thuyền trưởng cầm ống viễn vọng kính đưa lên mắt nhìn, rồi trao cho vị giám mục.
"Ðúng thật, có ba người đàn ông đứng trên bãi. Ðó, phía bên phải cạnh hòn đá lớn."
Giám mục cầm ống kính đưa lên mắt nhìn, ngài trông thấy ba người đứng đó, một người cao nhất, một người thấp hơn, và một người nhỏ thó lưng còng, đang nắm tay nhau đứng trên bờ đảo. Vị thuyền trưởng quay sang ngài.
"Tàu không thể vào gần hơn được. Xin ngài chuẩn bị xuống thuyền, chúng tôi sẽ cho bỏ neo ở đây chờ ngài."
Dây nhợ được thả ra, neo buông xuống, và cánh buồm hạ thấp. Một cái lắc mạnh, con tàu rùng mình rồi đứng yên tại chỗ. Một chiếc thuyền nhỏ được hạ xuống, mấy người thủy thủ nhảy xuống trước. Vị giám mục xuống thuyền bằng thang và ngồi yên ổn trên thuyền. Các tay thủy thủ bắt đầu chèo về hướng đảo . Khi chỉ cách bờ khoảng một tay sải ném, họ trông thấy ba ông đứng đó trên bãi: người cao nhất chỉ có một mảnh khố quấn ngang bụng, người thấp hơn trong bộ đồ nông dân rách rưới, và người già nhất lưng còng mặc chiếc áo thầy dòng cũ kỹ, cả ba đứng cạnh nắm lấy tay nhau .
Mấy tay chèo kéo xuồng vào bờ, giữ yên xuồng cho vị giám mục bước lên bãi. Người già nhất cúi mình chào ngài, ngài giơ tay làm phép lành cho họ. Họ cúi mình thấp hơn nữa để lãnh nhận phép lành. Và vị giám mục bắt đầu hỏi han họ:
"Ta có nghe về các người," ngài nói, "là những con người lành thánh sống biệt lập nơi đây để cầu nguyện cho sự cứu rỗi của linh hồn mình và cho những người đồng loại. Còn ta đây chỉ là tôi tớ hèn mọn của Chúa, với sự thương xót của Người, ta chăn giữ và chỉ dạy cho con chiên của Người. Ta đến thăm các người cùng là tôi tớ Thiên Chúa, với mục đích chỉ dậy cung cách thờ phượng Người."
Người già nhất nhìn sang các bạn mỉm cười, vẫn im lặng không nói năng gì.
"Hãy nói ta nghe," giám mục nói, "các người làm gì cho sự cứu rỗi linh hồn mình và thờ phụng Thiên Chúa thế nào trên đảo này?"
Nhà ẩn tu thứ hai thở ra, đưa mắt nhìn người già nhất là trưởng thượng của mình. Nhà ẩn tu già nhất mỉm cười, rồi nói.
"Chúng tôi không biết thờ phụng Chúa như thế nào, chúng tôi chỉ biết hầu hạ chính thân xác mình, là những tôi tớ của Chúa ."
"Nhưng các người cầu nguyện ra sao với Thiên Chúa?" vị giám mục hỏi .
"Chúng tôi cầu nguyện như thế này," vị ẩn tu nói, "Ba ngôi là Người, ba người là chúng tôi, xin thương xót linh hồn chúng tôi ."
Khi người già nhất vừa nói xong, cả ba cùng cất tiếng hướng mặt lên trời đồng thanh lâp lại:
"Ba Ngôi là Người, ba người là chúng tôi, xin thương xót linh hồn chúng tôi ."
Giám mục mỉm cười.
"Như vậy là các người đã nghe nói đến Mầu Nhiệm Ba Ngôi," ngài nói. "Nhưng các người cũng chưa cầu nguyện đúng cách. Các người làm động lòng thương mến của ta, những con người lành thánh ạ. Ta hiểu rõ các người muốn làm vừa lòng Thiên Chúa, nhưng chỉ vì chưa biết đúng cách thờ phượng Người. Ðó không phải là cách thức cầu nguyện, hãy nghe ta, ta sẽ chỉ dạy cho các người cách cầu nguyện. Không phải là cách của ta, mà là của Chúa dạy người ta cầu nguyện như chép trong kinh thánh."
Rồi ngài bắt đầu giảng giải cho họ về sự tỏ mình của Thiên Chúa đối với con người. Ngài nói về Thiên Chúa ngôi Cha, Thiên Chúa ngôi Con, và Thiên Chúa Thánh Thần.
"Thiên Chúa ngôi Con đã xuống trần gian làm người để cứu chuộc nhân loại," ngài giảng, "và Người đã dạy chúng ta cầu nguyện như thế này. Hãy lắng nghe và lập lại theo ta: 'Lạy Cha chúng tôi.' "
Người già nhất lập lại theo vị giám mục, "Lạy Cha chúng tôi," người thứ hai nói theo, "Lạy Cha chúng tôi," và người thứ ba cũng nhắc lại, "Lạy Cha chúng tôi ."
"Ngự ở trên trời," vị giám mục tiếp.
Người thứ nhất lập theo, "ngự ở trên trên trời," nhưng người thứ hai nói vấp, và người cao nhất không nói hết được câu. Tóc râu ông rậm rạp quá mọc che kín cả miệng khiến ông phát âm không rõ tiếng. Người già nhất không còn chiếc răng nào lẩm nhẩm những lời trong miệng một cách ngọng ngịu .
Vị giám mục nhắc lại từng chữ một, các ông già lập lại theo. Giám mục ngồi xuống trên mỏm đá, các ông đứng cạnh nhìn theo miệng ngài bắt chước phát âm và đọc lên từng chữ. Suốt cả ngày giám mục kiên nhẫn như thế để cố sức chỉ dạy, ngài đọc từng câu hai mươi lần, ba mươi lần, cả hàng trăm lần cho các ông già đọc theo. Họ đọc vấp, ngài chỉnh lại, và cứ bắt đầu lại mãi như thế.
Vị giám mục nhất quyết không rời đảo cho đến khi ngài dạy họ đọc được cả bài kinh thuộc lòng mà không cần lập lại theo ngài. Người thứ hai là người thuộc trước nhất, ông đọc cả bài kinh thuộc lòng một mình. Giám mục bắt ông đọc đi đọc lại mãi và nhắc những ông kia cho đến khi cả ba cùng có thể đọc được một mình.
Trời đã tối và trăng đã nổi lên trên mặt biển trước khi giám mục đứng lên trở về tàu. Khi ngài sắp sửa rời, các ông cúi mình xấp xuống trước mặt ngài thành kính. Ngài đỡ họ dậy, hôn lên má từng người và nhắc họ nhớ cầu nguyện những lời kinh mà ngài vừa dạy. Rồi ngài lên thuyền trở về tầu.
Khi ngài đã bước lên thuyền bơi trở ra tàu, tai còn nghe tiếng đọc kinh của các nhà tu văng vẳng từ bờ. Cho đến khi lên tầu lớn ngài vẫn còn nghe và nhìn thấy bóng ba ông đứng trên bãi cầm lấy tay nhau, người già nhất ở giữa, người cao nhất bên phải, và người cao vừa đứng bên trái. Tàu nhổ neo và sửa soạn căng buồm khi ngài vừa lên tàu. Gió bọc lấy cánh buồm và tầu lướt đi trên sóng, vị giám mục ngồi xuống nơi đuôi tàu nhín lại hòn đảo đang nhỏ dần phía xa. Ngài vẫn nhìn thấy ba vị đứng đấy, tay trong tay, cho đến khi biến mất hẳn trong tầm mắt, chỉ còn mặt biển mênh mông nhấp nhô những đầu sóng trong ánh trăng vằng vặc.
Các người hành hương nằm ngủ cả trên sàn tàu, trong ánh trăng mát rượi đó. Còn ngài, ngài không cảm thấy buồn ngủ. Ngài ngồi đấy trong thinh lặng nơi cuối tầu một mình, nhìn về phía hòn đảo đã biến mất trên biển và nghĩ về những người ẩn tu kỳ lạ. Ngài cảm thấy hài lòng vì họ đã đọc được lời Chúa. Ngài tạ ơn Chúa đã gửi mình đến để chỉ dạy cho những con người tốt lành đó.
Và ngài ngồi như thế, suy nghĩ nhìn về phía biển nơi hòn đảo đã biến mất dạng từ lâu. Ánh trăng lấp lánh trước mắt, khi ánh lên chỗ này, khi ánh lên chỗ kia, trên những làn sóng. Chợt ngài nhìn thấy vật gì trăng trắng sáng lên trên dải ánh trăng đổ dài trên mặt bể. Ðó là một cánh hải âu, một cánh buồm, hay một chiếc thuyền nhỏ? Ngài ngạc nhiên nhìn chăm chú vào vật trắng đó như đang di động về phía mình.
"Chắc là một chiếc buồm đang lướt theo mình," ngài nghĩ, "nhưng nó đang cố vượt nhanh như để đuổi kịp. Vừa cách đây một phút thấy nó ở đàng xa, giờ đã gần hơn. Không thể là một chiếc thuyền vì không trông thấy cánh buồm. Không biết nó là cái gì, nhưng chắc chắn đang đuổi theo tàu mình."
Ngài không thể đoán "nó" là cái gì. Không phải cánh buồm, không phải chim biển, không phải cá, và chắc không phải người, vì người không thể ở giữa mặt biển như thế. Vị giám mục nhổm người dậy gọi người tài công đang ở trong buồng lái.
"Nhìn kìa, có vật gì trên biển thế kia? Nó là cái gì thế?" Ngài lập lại, mặc dù ngay giây phút ấy ngài đã nhìn rõ đó là cái gì - ba nhà ẩn tu đang lướt trên mặt nước, cả ba đều sáng lòa với những hàm râu bạc lóng lánh, họ đang tiến về phía tầu như thể con tầu đang đứng yên một chỗ.
Người tài công cũng nhìn thấy và sững sờ buông bánh lái.
"Ô lạy Chúa, ba nhà ẩn tu đang chạy theo mình trên mặt nước như là trên đất bằng vậy."
Hành khách trên sàn tầu nghe ông la lớn đều tỉnh dậy và tuốn về cuối tầu ngạc nhiên xem. Họ nhìn thấy ba ông tay nắm tay đang tiến nhanh về phía họ, hai người bên ngoài ra hiệu cho tầu dừng lại. Cả ba đều trượt trên mặt sóng chân không hề cất bước. Trước khi tầu kịp ngừng, ba ông đã đến nơi và ngẩng mặt nhìn lên, họ cất tiếng nói như cùng một giọng.
"Chúng tôi đã quên mất những gì được người chỉ dậy, người tôi tớ của Chúa. Chỉ khi đọc liên tục, chúng tôi mới nhớ lời người dạy. Nhưng khi ngưng đọc, chúng vuột khỏi miệng và rơi đâu mất, tan biến từng mảnh mất rồi . Chúng tôi không còn nhớ gì cả, xin ngài chỉ dạy chúng tôi."
Giám mục đến bên thành tầu, ngài nói:
"Lời cầu nguyện cách riêng của các người đã chạm đến Chúa, những Người của Chúa. Không phải ta là người có thể chỉ dạy các ông. Xin cầu nguyện cho những kẻ tội lỗi chúng tôi."
Nói rồi ngài cúi mình xuống thấp trước mặt ba vị, họ quay trở về hướng đảo, lướt êm trên mặt sóng. Ánh trăng chiếu sáng ngời trên mặt biển cho đến lúc trời sáng, nơi phía ba vị biến mất.
Leo Tolstoy
Phạm Chi Lan dịch từ truyện ngắn "The Three Hermits" của văn hào Leo Tolstoy của Nga.