vhnt, số 216
16 August 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Thơ Vũ Hữu Ðịnh .............................................NTD g/t
- Kỷ niệm ...............................................................
- Ðứng giữa đồng không ............................................
- Ðêm nghe còi tầu ....................................Vũ Hữu Ðịnh
2 - Thơ chuyển ngữ: Rainer Maria Rilke ........Trần Thuyên phụ trách
- The suicidés song / tuyệt thực ca ...................................
- Coda / Ðoạn kết ......................................................
- Love song / tình ca .....................................................
- The Poet / thi sĩ ..............Rainer Maria Rilke / Trần Thuyên dịch
3 - Tiếng vọng ........................................Trần Nguyên Thảo
4 - Nếu ...................................................Tôn Thất Hưng
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
5 - Nhân con ngựa gỗ: tuyên ngôn nghệ thuật của Lê Ðạt ........
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
6 - Ðoản khúc 7 ..................................................Cỏ Nhớ
7 - Bầy chim chìa vôi ..............................Nguyễn Quang Thiều
8 - Người cha ............................................Trần Hoài Thư
Người đọc đọc tác phẩm như đi theo một dòng sông. Dòng sông bắt nguồn từ cảm thức ở điểm đầu và có khi đưa ta đi chưa hết một dòng sông ở điểm cuốị Dòng sông dẫn ta ngược trở lại thượng nguồn, từ những gợi nhớ và hình ảnh của ấn tượng, dòng sông còn dẫn ta ra đến biển. Biển thì mênh mông và rộng vô cùng. Ðọc một tác phẩm gợi cảm xúc, như gặp những giọt nước thấm ướt lòng khô quạnh tràn ra đổ vào cái vô cùng tận của biển bao la. Việc đọc cũng giống như một hành động đánh thức hay lay động một cõi tư tưởng ngủ yên hoặc chưa được khai mở hoặc chưa được biết đến...
Trong đời sống có bao nhiêu người chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các tác phẩm văn học và nghệ thuật và có biết bao điều biến đổi xã hội từ cách đặt vấn đề và gợi tư tưởng từ những tác phẩm? Thời kỳ thiên về cảm giác và thiên về tư tưởng có thể bắt đầu từ lúc người ta ngồi thinh lặng để mọi tiếng động chung quanh lắng xuống để nghiệm lấy những khoảnh khắc cô đơn đặc biệt để hiểu thinh không muốn nói gì với mình. Khi ấy, có lẽ ngưới ta đang tập cho mình một cá tính trong cách suy nghĩ, trong tình cảm, trong một khuynh hướng nội tâm để đánh giá những điều đã trải qua, những cảm nhận đã gặp, những điều đã nghiệm và có thể từ những cuốn sách đã đọc qua và dừng lại ở tri thức.
Dòng sông tri thức sẽ mở ra những giấc mơ và những viễn tượng, ở đó, mong rằng chỉ có những giấc mơ đẹp và những ấn tượng dịu dàng, những hình ảnh trong sáng, những dòng nước mát xoa dịu mọi khô cằn của đời sống, dằn vặt của đau khổ buồn phiền, và an ủi vỗ về những khoảng trống cô đơn nhất trong lòng người.
Gửi bạn đọc những sáng tác đặc sắc số này, và chúc một cuối tuần yên lành, nhiều niềm vui nhẹ nhàng, thoải mái.
thân ái,
PCL/vhnt
Phố núi cao, phố núi đầy sương. Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn. Anh khách lạ đi lên đi xuống. May mà có em đời còn dễ thương..." Thơ Vũ Hữu Ðịnh đấy! Con người này có hai việc thuộc loại chuyên nghiệp: làm thơ và tìm cách không đi lính. Vì thế, thời ấy thơ anh buồn bã, khắc khoải, bất ổn như chính giai đoạn anh đang sống. Sau 1975, Vũ Hữu Ðịnh tự điều chỉnh máu giang hồ lãng tử để hoà nhập vào dòng thơ ca hiện thực. Rất tiếc niềm vui ấy chỉ được vài năm, Vũ Hữu Ðịnh đột ngột ra đi trong cơn bạo bệnh, chưa kịp cho ra đời một tập thơ riêng nào.
Nay, những bạn bè của anh đang góp tay thực hiện điều mơ ước không thành đó của Vũ Hữu Ðịnh. Một ý định đẹp của tình bạn.
oOo
Kỷ Niệm
con đường đất, có màu xanh bữa nọ
cây bên đường màu lálục hôm kia
con chim bỏ đi có bận quay về
cất tiếng hát chào niềvui của gió
anh ra đứng sau hè nghe để ngó
không thấy chim mà thấy tiếng kinh chiều
vui trong lòng anh đã bước chân theo
em có nói là em không trở lại
hôm em nói em đi buồn biết mấy
anh có nghe bên đường tiếng chim kêu
con chim chi buồn chết cả buổi chiều
từ bữa đó anh nhớ đường ra ngõ
con đường đất bàn chân từ lúc nhỏ
một ngày vô bốnbận đi về
cây bên đường, cỏ bụi, hàng tre
quen đến nỗi không nhớ gì tha thiết
hôm em đi anh bắt đầu thấm mệt
thấy trường xa, con đường ngại đi về
mắt anh nhìn lên đọt ngọn tre
dõi mấy bụi tìm con chim nhỏ
con chim nhỏ có nằm trong vạt cỏ?
bữa hôm nay anh mới thấy cỏ vàng
con chim đời nào lại sống trong hang
anh vô cớ soi tìm trong đụn đất
tuổi mười một anh biết mình đã mất
một cái chi không nên ảnh thành hình
cho tới bây giờ hết tuổi học sinh
râu đủ bộ vẫn còn ngơ ngẩn mãi
con chim nhỏ có bao giờ trở lại?
em năm nay không biết mấy con rồi?
con chim lạ lùng năm nọ của tôi ơi
hóa mấy kiếp mà sao tôi vẫn vậy
Đứng Giữa Đồng Không
một bầy sáo nhỏ qua sông
một em tôi đã cầm lòng đi xa
như con sông nhỏ thật thà
sớm hiu hắt lạnh, chiều xa mưa nguồn
một bầy sáo đã đi luôn
một em tôi đã để buồn lại đây
con chim quyên đã lạc bầy
xuống sông vọc nước đợi ngày xế ngang
một bầy sáo nhỏ bay hoang
một em tôi đã bỏ làng đi xa
tôi ngu ngơ giữa chiều tà
em đi để lại mình ta giữa đồng.
Đêm Nghe Còi Tàu
nhà anh ở gần ga
đêm thao thức nghe còi tàu giục giã
giữa đêm vắng chợt thấy lòng xa lạ
mấy năm không đi trời đất nhỏ dần
ôi tiếng còi tàu như một nhát gươm
rướm máu lòng khao khát
(Trích TTCN 14/04/1996)
Thơ Rainer Maria Rilke
The Suicide's Song
So it's back once more, back up the slope.
Why do they always ruin my rope
With their cuts?
I felt so ready the other day,
Had a great foretaste of eternity
In my guts.
Spoonfeeding me yet another sip
From life's cup.
I don't want it, won't take any more of it,
Let me throw up.
Life is medium rare and good, I see,
And the world full of soup and bread,
But it won't pass into the blood for me,
Just goes to my head.
It makes me ill, though others it feeds;
Do see that I must deny it!
For a thousand years from now at least
I'm keeping a diet.
Tuyệt Thực Ca
Lại thêm lần nữa, trèo lên dốc nổi.
Sao người đời cứ hủy hoại sợi sống tôi
Với những vết cứa?
Hôm trước đây tôi đã chuẩn bị,
Nếm trước vị nghìn trùng
Tận đáy tâm tư.
Ðút ép tôi một ngụm nhỏ nữa
Từ cái chén cuộc đời.
Không ham, sẽ không ăn thêm nữa,
Hãy để tôi ụa mửa từng lời.
Cuộc đời nửa sống nửa chín và tốt đẹp, tôi thấu,
Và thế giới dẫy đầy những bánh và canh,
Những thứ ấy không nuôi giòng máu
Chỉ nhét vào đầu, trí óc thất thanh.
Làm bệnh hoạn tôi, dù tha nhân bổ dưỡng;
Thấy nhẻ, riêng tôi nhất mực chối từ!
Cho đến ít ra ngàn năm sau nữa
Tôi sẽ kiêng ăn những thứ ậm ừ.
oOo
Coda
Death is great.
We are in his keep
Laughing and whole.
When we feel deep
In life, he dares weep
Deep in our soul.
Ðoạn Kết
Tử thần rất tốt.
Sinh mệnh ta hắn giữ gìn
Cho vui tươi và nguyên vẹn.
Khi đời chìm sâu đáy biển
Hắn rơi lệ rất thản nhiên
Vào linh hồn ta, (hắn) mãn nguyện.
oOo
Love Song
How am I to contain my spirit lest
It touch on yours? How lift it through a space
Higher than you to things environing?
Oh, I should gladly lay it by to rest
In darkness with some long-forgotten thing
At some outlandish resounding place
Which won't re-echo your deep echoing.
But all that touches you and me come so,
It takes us jointly like a stroking bow
That draws one voice from two strings by its tilt.
Upon what instrument then we are strung?
And by the hands of what musician wrung?
Ah, the sweet lilt.
Tình Ca
Cho đến khi ta cùng em hạnh ngộ
Làm sao ta chất chứa được linh hồn?
Làm sao đến chốn không cùng, cao đỉnh?
Ừ, hay nên lần an nghĩ tìm vô
Cùng bóng tối, với lãng quên yên tĩnh
Ở một nơi vang vọng những vùi chôn
Không vọng lại em đời sâu khép kín.
Nhưng em ơi, mỗi hạnh ngộ đời nhau
Ðến như mỗi nốt nhạc hồn song tấu
Một âm thanh, hai dây đàn hòa điệu
Hai cuộc đời trên nhạc khí nào đây?
Nhạc sĩ nào tay nâng phím, so dây?
Ôi, tấu khúc ngọt ngào huyền diệu.
oOo
The Poet
Farther from me, o hour, you grow.
Your wingbeat wounds me upon its way.
What would I do with my lips, though?
With my night? With my day?
I have no beloved, no shelter,
No homestead at which to be.
All things I lavish my self on
Grow rich and lavish me.
Thi Sĩ
Hỡi thời gian, em mỗi phút càng thêm xa mãi.
Nhịp cánh em là mỗi vết thương sâu.
Tôi sẽ làm chi đôi môi buồn ở lại?
Với ngày sẽ dài? Với cuối đêm thâu?
Không cần thân thương, hay vùng trú ẩn,
Chẳng thiết quay về mái ấm tình đôi.
Tôi sống xa hoa với đôi bàn tay trắng
Cũng đủ giàu cho đời những buồn vui.
Trần Thuyên chuyển ngữ
Tiếng Vọng
Vọng tiếng chân trời, anh gọi em
Lời thương. Mây trắng xóa. Êm đềm
Không gian tràn lấp câu trìu mến
Nghe rồi, nghe lại, vẫn thương thêm
Mộng ước xa vời, trăng dịu êm
Ðêm vàng. Tóc mướt. Suối hương mềm
Quỳnh hoa nở ngát, yêu bình dị
Không nói năng gì, anh với em...
Chiều bồng ngọn gió, anh tìm đến
Nhìn nhau, đong nỗi nhớ không tên
Chẳng mong, cũng đã nhiều lưu luyến
Như hoàng hôn nhớ những ánh đèn
Còn muốn nói chi, nói thêm chi
Những lời yêu dấu lúc xuân thì
Thì em đã gửi, ngày sau nữa
Anh cùng em nhớ phút tình si
Vọng tiếng chân trời, anh gọi em
Dòng sông xa, con nước êm đềm
Bơi ngược nhánh đời, xoay tìm hướng
Chân trời xa quá, lại xa thêm...
trần nguyên thảo
8/05/96
Nếu
tặng MC
Nếu có thể
Tôi làm tên hành khất
Ðến nhà em gỏ cửa, và xin
Em hãy tin
Khi một điều sự thật
Ngày rồi tháng cũng tháng tròn tháng mất
Nữa là em dẫu phải ngậm bồ hòn
Nếu có thể
Tôi làm tên ngoan đạo
Ðến giáo đường
Cầu nguyện mỗi tên em
Nếu đóng đinh để đọa đày thân phận
Vẫn yêu thương dẫu phải lụy thiên đàng.
8/1996
TTH
Gửi đến các bạn bài viết ngắn của Lê Ðạt, Nhân Con Ngựa Gỗ. Bài viết trên danh nghĩa chỉ là lời mào đầu cho bài thơ Ông Phó Cả Ngựa, nhưng thật ra (theo thiển ý) là tờ khai lý lịch của tập thơ Bóng Chữ, hay nói rộng hơn chút, là bản tuyên ngôn nghệ thuật của Lê Ðạt. Bài viết là có liên hệ khá mật thiết với những thảo luận về "interactive poetry" trên Ô-Thước những ngày gần đây.
Nhân Con Ngựa Gỗ
Tôi không ác cảm thơ "mới" năm 1930. Tôi từng đã có thời say mê các nhà thơ "mới" và hành bút dưới bóng họ.
Nhưng tôi không muốn tiếp tục. Thành tựu của họ đòi hỏi ta phải thử những thành tựu khác.
Thơ "mới" năm 1930 chịu ảnh hưởng nặng chủ nghĩa lãng mạn Pháp thế kỷ XIX. Nó chưa ra khỏi quỹ đạo của cái mà các nhà thi pháp học gọi là định lý Ðalămbe: "Chỉ có thể coi là ưu trong thơ cái được đánh giá là tối ưu trong văn xuôi !".
Thơ không phải văn xuôi được nâng cấp, mông má tại một mỹ viện. Văn xuôi chủ yếu dựa vào "ý tại ngôn tại".
Thơ khác hẳn dựa vào "ý tại ngôn ngoại".
Ðã có "ý tại ngôn ngoại" tất nhiên, phải cô đúc, đa nghĩa.
Ða nghĩa vì câu thơ mang nặng lịch sử chữ, hoạt động ở nhiều tầng văn hóa, cả trong ý thức lẫn vô thức người viết. Nhà thơ ít nhiều ngoại cảm chứ.
Có người hỏi Malacmê:
- Ông định nói gì trong bài thơ ?
- Nếu biết định nói gì thì nói, việc gì phải viết thơ.
Lại hỏi:
- Sao tôi nhiều ý hay mà làm thơ lại không hay?
- Người ta làm thơ không phải bằng ý mà bằng chữ.
Nhà thơ làm chữ chủ yếu không phải ở nghĩa "tiêu dùng" nghĩa tự vị của nó mà ở diện mạo, âm lượng, độ vang vọng, sức gợi cảm của chữ trong tương quan hữu cơ với câu thơ bài thơ.
Nói như Valêri, chữ trong thơ và văn xuôi tuy giống nhau về hình thức nhưng khác nhau về giá trị (hóa trị có lẽ đúng hơn).
Người đọc thời trước là một người đọc tương đối thụ động tìm lý giải một ý đã có sẵn.
Người đọc thời nay là một người đọc tích cực cùng tham dự phát nghĩa với nhà thơ.
Người đọc phần nào đồng tác giả với người viết.
Ông phó cả ngựa có thể là một nhà thơ không tự biết. Những con ngựa của ông họ hàng với những con chữ, nó sinh sôi nẩy nở bất tận với trời đất.
Bậc phó cả
Dễ ít nhiều Tạo hóa
Cùng cánh thơ.
Ðây là một loại ngựa gỗ đặc biệt, loại ngựa công nghiệp sinh học đời mới. Người nghệ sĩ già đã cấy vào đó gien của số phận.
Ngựa lên mấy
Mà nghìn tuổi cây
Và một tiểu sử người
Và câu chuyện Ông phó cả ngựa biết đâu chẳng là một ngụ ngôn về thi pháp, về truyền thống, đổi mới.
Ðại sư Cổ Ðức nói: "Khi ta trỏ mặt trăng, nhiều người mải nhìn ngón tay mà quên mất mặt trăng".
Bạn đọc trước khi bước vào bài thơ xin tạm để lại cách đọc tuyến tính thuần duy lý ở ngưỡng cửa như người khách bỏ giầy trước khi vào một trà thất Nhật Bản.
Bạn hãy thử để những hình ảnh những con chữ trong câu thơ dắt dẫn trên con đường tâm thức ra khỏi lối đi chữ nghĩa "tiêu dùng" một chiều quen thuộc hàng ngày.
Lê Ðạt
đoản khúc 7
Mỗi 1 lần nghe giọng thằng Linh bên đầu kia giây điện thoại, tôi phải hỏi:
- Em đang ở đâu ?
Bởi vì thằng em họ nầy khi Úc, khi Ðại Hàn, khi Nhật... lung tung các xứ mới gọi tôi. Nơi chốn của nó thường là ở 1 góc đường nào đó "cô bán hàng trông giống chị", hay ở 1 quán cafe nhí nhố tiếng địa phương "nhạc ở đây nghe tuyệt chị ạ". Lâu lâu thì ông nhô lại mang cho tôi tiếng kèn xe, tiếng rao hàng quen thuộc của Sài gòn; khoe "trúng áp phe nên gọi rủ chị về em đãi đi ăn đồ biển". Ở Sài gòn nhưng nó có số "xuất ngoại". Linh làm kỹ sư máy cho hãng tàu Hòa Lan, hay viễn dương. Tôi về Sài gòn 4 tuần mà gặp nó chưa được 4 tiếng đồng hồ. Chị em sau 10 năm gặp nhau chỉ kịp ăn với nó bữa cơm, hỏi thăm vài câu về người con gái vừa bỏ nó đi. Thằng Linh trong trí tôi còn nhỏ lắm. Từ nhỏ tới lớn nó hiền lành, yếu đuối:
- Em đâu phải là có máu giang hồ. Vì 1 đứa con gái mà thay đổi cuộc sống vậy có đáng không?
Bạn gái nó, nghe nói là thích du lịch và có số đi đây đi đó thật. Cô bé đi Pháp rồi qua Canada. Gần đây lại định cư ở Mỹ nên hay liên lạc thường với tôi. Cô bé dễ thương ch Tôi cũng thấy tiếc cho thằng em. Thế nhưng tôi vẫn kể cho cô bé đó nghe là thằng Linh vẫn làm ở Sài gòn, vẫn sống nhàm chán như vũng lầy đọng nước, như khi họ còn yêu nhau. Thằng Linh mà biết được chắc nó giận tôi. Nó chẳng thương bà chị họ tới nỗi đi đâu cũng gọi báo tin. Chỉ muốn qua tôi nhắn lại là nó đã thỏa được tâm nguyện lãng du, thỏa chí tang bồng của người xưa. Ðể làm gì đi nữa cũng vô dụng thôị Ngay trên quê hương đã mất nhau. Nói gì ở 2 đầu trái đất.
Tôi định gạt thằng Linh được ngày nào hay ngày đó. Ít ra là cứ để nó thỉnh thoảng gọi tôi giữa khuya, để tôi còn có 1 nguyên nhân giải thích cái bệnh mất ngủ triền miên của mình.
Cỏ Nhớ
Ðôi lời về tác giả:
Nguyễn Quang Thiều sinh 1957, quê ở huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây. Biên tập viên tuần báo Văn nghệ. Từ 1990 xuất bản bốn tập thơ, hai tập truyện ngắn, bốn tiểu thuyết, dịch một tập truyện ngắn Australia và hai tập thơ Mỹ. "Bầy chim chìa vôi" in trong tập truyện ngắn nhiều tác giả "Bông hồng vàng", Hà nội 1994.
Bầy Chim Chìa Vôi
Khoảng hai giờ sáng, Mon tỉnh giấc. Nó xoay mình sang phía anh nó thì thào gọi:
- Anh Mên ơi, anh Mên!
- Gì đấy, mày không ngủ à. Thằng Mên hỏi lại, giọng nói ráo hoánh như đã thức dậy từ lâu lắm rồi.
- Anh bảo mưa có to không?
- Ly chẳng to. Thế mày không nghe thấy gì à?
- Nhưng anh bảo nước sông lên có to không?
- Bây giờ thì phải ngập đến cánh bãi dưới rồi.
- Thế anh bảo ...
- Bảo cái gì mà bảo lắm thế. Mên gắt em nó.
- Em bảo - Mon ngập ngừng - thế cái bãi cát giữa sông đã ngập chưa.
- Ừ nhỉ - Giọng thằng Mên chợt thảng thốt - có lẽ sắp ngập mất bãi cát rồi.
- Em sợ những con chìa vôi non bị chết đuối mất.
- Tao cũng sợ.
- Thế anh bảo chúng nó có bơi được không?
- Chim thì bơi làm sao được. Mày làm chim chìa vôi cứ như vịt ấy.
Hai đứa bé nằm trong chiếc chăn dạ đã rách nhiều chỗ thì thầm nói chuyện. Bên ngoài mưa vẫn to. Trong tiếng mưa hình như có tiếng nước sông dâng cao, xiên xiết chảy.
- Chiều qua em theo bố đi kéo chũm ở gần cống sông ấy.
- Thế thì sao?
- Bố bảo chỉ sông làng mình chim chìa vôi mới làm tổ như thế. Sao nó lại không làm tổ ở trên bờ hả anh? Tao không biết.
Gần sáng mưa to và gió tạnh. Cánh cửa liếp bị gió thổi đập cành cạch. Có tiếng người đi qua đầu ngõ nhà hai đứa bé gọi nhau.
Một ai đó nói: "Mẹ kiếp. Năm nay nước sông to phải biết".
- Ai đi đâu đấy hả anh? Mon hỏi.
- Người trong làng đi kéo chũm sông về.
- Nhỡ nước ngập bãi cát thì sao, hả anh?
- Mày đừng hỏi nữa, ngủ đi.
Mên gắt và xoay lưng về phía em nó. Hai đứa bé nằm im, nhưng không ngủ. Có lẽ bố chúng nó nói đúng. Chỉ ở khúc sông làng chúng những con chim chìa vôi mới làm tổ như thế. Hàng năm vào mùa nước cạn, giữa sông làng nổi lên một giải cát. Sau một thời gian, những đám rong sông tốt bời bời héo dần thành một lớp đệm ẩm trên cát. Vào lúc đó, những con chim chìa vôi mảnh khảnh và ít lời từ hai bờ sông bay ra bãi cát. Chúng tìm những đám rong khô và dày để đẻ trứng. Khi những con chim chìa vôi non đã đủ lông cánh cũng là lúc có những đám mây lạ từ dãy núi đá vôi Hoà bình bay về báo hiệu mùa mưa. Những tiếng sấm sau mỗi đêm lại chuyển dần từ một chân trời xa về bên kia sông. Và bất chợt một đêm nào gần sáng, sấm nổ vang trên nóc nhà và mưa ném xuống. Con sông Ðáy cựa mình lớn lên. Chỉ sau dăm đêm, giải cát nổi giữa sông chìm vào trong nước đồ Khi vòng vây của nước ập vào phần cuối cùng của bãi cát thì những con chim chìa vôi non lần đầu tiên trong đời đập cánh bay lên. Những con chim bé bỏng dứt khỏi dòng nước khổng lồ bay vào bờ. Và đến mùa khô sang năm chúng lại bay ra giải cát nổi bắt đầu mùa sinh nở của chúng.
Mươi ngày trước, hai anh em thằng Mên đã trốn bố mẹ lội ra giải cát nổi giữa sông. Chỉ có lũ trẻ con mới biết con đường an toàn chạy ngoằn ngoèo dưới đáy sông. Chúng tránh được những hố sâu dưới đáy sông do người làng lấy cát để lại. Hai anh em thằng Mên tìm đến cái tổ chim chìa vôi. Thấy động, những con chim chìa vôi non kêu líu ríu tưởng bố mẹ chúng đi kiếm ăn về. Hai đứa bé cẩn thận qùy xuống nền cát bên cạnh tổ chim.
- Anh bảo bao giờ thì chúng nó bay được. Thằng Mon hỏi.
- Mấy ngày nữa.
- Thế mẹ chúng đi kiếm ăn à?
- Ừ
- Chim chìa vôi có ăn được hến không?
- Tao không biết, nhưng bố mẹ chúng vẫn lội kiếm ăn ở ven sông.
- Mình bắt hến bỏ vào tổ cho chúng ăn anh nhe.
- Ừ thì đi.
Hai đứa bé đi ra mép nước. Chúng tìm những lỗ hang nhỏ. Trong những cái hang ngỏ ấy luôn luôn có một con hến hoặc con trùng trục. Chỉ một thoáng hai đứa đã bắt được một nắm hến. Chúng xếp những con hến dính đầy cát bên tổ chim.
Trước khi rời bãi cát, Mên nói với em nó:
- Mày không được nói cho đứa nào biết cái tổ chim này nhé. Mày mà nói tao không cho mày ra đây nữa.
- Thế bao giờ mình lại ra thăm chúng nó?
- Ba ngày nữa. Này, nếu bố hỏi đi đâu thì bảo là xuống bãi ổi nhé.
Nhưng hai đứa trẻ không thực hiện được ý định của chúng. Mùa mưa năm nay như về sớm hơn. Mấy ngày mưa liên miên và nước sông dâng lên rất nhanh.
- Anh ơi! Thằng Mon lại thì thào gọi.
- Gì?
- Anh đã nhìn thấy chim chìa vôi nó bay từ bãi cát vào bờ bao giờ chưa?
- Chưa!
- Tổ chim sẽ bị chìm mất.
Thằng Mên nằm im lặng không trả lời em nó. Lâu sau nó hỏi:
- Thế làm thế nào bây giờ?
- Hay mình... mang chúng nó vào bờ.
- Bây giờ nước to lắm, làm sao mà lội ra đấy được.
- Em không biết.
Hai đứa bé lại nằm im lặng. Mưa vẫn đổ xuống mái nhà và gió vẫn thổi vào phên cửa liếp cành cạch.
- Chiều qua bố kéo chũm được một con cá măng.
- Thế mà cũng khoe, ai mà chẳng biết.
- Cả một con cá bống rất to và đẹp. Em lấy trộm con cá bống.
- Thế để đâu rồi? Thằng Mên quay sang phía em nó hỏi.
- Em thả vào chỗ cống sông rồi. Anh bảo đấy có phải là con bống ở hốc cắm sào đò dưới bến không?
- Mày có nhìn thấy cái chấm đen to to ở vây nó không?
- Em không nhìn. Chiều về đổ giỏ cá ra chậu, bố kêu mất con bống. Bố bảo có khi con cá măng ăn con bống rồi. Bố bảo mẹ mổ con măng ra xem có con bống trong bụng nó không.
- Hi hí. Thằng Mên bật cười khoái chí.
- Cái hốc cắm sào đò ngập bủm rồi anh nhỉ?
- Ngập từ chiều hôm kia rồi. Ngập đến mái nhà con bống cũng chẳng sợ.
- Anh ơi...
- Gì?
- Tổ chim ngập mất anh ạ. Mình phải mang chúng nó vào bờ, anh ạ.
- Đi bây giờ à? Thằng Mên hỏi sau một phút im lặng.
- Vâng, cứ lấy đò của ông Hảo mà đi.
Lần này thằng Mên im lặng lâu hơn. Cuối cùng nó quay lại phía em nó.
- Đi. Nhưng phải khẽ thôi. Bố tỉnh dậy bố đánh chết.
Hai đứa bé lần mò trong ngôi nhà tối om ra phía cửa. Khi cánh cửa liếp được mở hé ra thì gió ùa vào. Hai đứa bé khẽ rùng mình và lách ra ngoài.
- Để tao xem bố để áo mưa ở đâu.
Thằng Mên nói và lần theo hiên nhà xuống bếp. Một lát sau nó mang lên hai tấm áo mưa và hai chiếc mũ lá chúng thường dùng để đi chăn trâu. Chúng khoác áo mưa và đội mũ rồi bước xuống sân. Một tiếng sấm nổ vang trên đầu. Chớp lóe sáng. Thằng Mon vội ôm lấy cánh tay anh nó:
- Anh ơi, có ai đứng ở đầu ngõ...
- Đâu? Làm gì có ai. Đâu?...
- Lúc chớp em nhìn thấy.
Hai đứa bé đứng lặng giữa sân. Người chúng run lên. Mưa rào rào ném vào chúng.
- Đấy, người đấy. Anh thấy không? Thằng Mon kêu lên sau ánh chớp vừa lóe sáng.
- Mày ngu lắm - Giọng thằng Mên như thở phào - Đấy là cây chuối tao chặt lúc chiều cho lợn. Thôi đi.
Hai anh em thằng Mên lần ra khỏi ngõ đi xuống bến sông. Trong ánh chớp, hai đứa bé nhìn thấy dòng sông rộng lớn lạ thường.
- Anh có nhìn thấy dải cát không?
- Tối lắm.
Khi xuống đến giữa bãi sông, hai đứa trẻ như dạt vào nhau vì gió. Một tiếng sấm nổ chói tai như ở ngay trên chóp mũ chúng. Hai đứa bé như bật lên khỏi mặt đất.
- Anh ơi! Thằng Mon kêu lên và ôm choàng lấy anh nó.
- Cái gì? Thằng Mên hoảng hốt.
- Ai đội nón đứng ở kia kìa.
- Mày đừng nói nữa.
- Đấy anh. Giọng thằng Mon như khóc.
Một tia chớp phóng ra từ đâu đó và chạy lan trên trời như một cái rễ cây khổng lồ.
- Thế mà cũng nhìn. Thằng Mên bực tức
- Cái bù nhìn đuổi chim chứ người đâu mà người.
- À đúng rồi.
Thằng Mon kêu lên. Bây giờ nó mới nhớ ra cái bù nhìn của ai đó dựng lên từ đầu vụ ngô bãi. Sau này bọn trẻ trâu vẫn dựng lại để chơi. Hình như sau lần này, hai đứa bé đỡ sợ hơn. Chúng đi nhanh xuống bến nơi có con đò cột ở đó, thằng Mên hì hục cởi cái dây buộc đò. Bàn tay nó run bần bật. Thi thoảng nó lại ngoái lại nhìn về phía nhà ông lái đò sát chân đê.
- Được rồi. Lên đò đi.
Thằng Mon hấp tấp trèo lên: Hai đứa bé cùng ôm cây sào chống đò dài và nặng quá sức của chúng đẩy con đò ra khỏi bờ.
Con đò nặng nề trườn ra khỏi bờ. Nhưng khi vừa gặp dòng nước thì con đò quay mũi và cứ thế trôi xuôi dòng. Hai đứa bé luống cuống với chiếc sào chống đỡ. Nhưng con đò không để ý đến hai đứa bé cứ thế trôi đi. Thằng Mên kéo cây sào và đi lên phía mui đò, và rối rít gọi em nó:
- Lên đây, nhanh lên.
Thằng Mon loạng choạng bước trong lòng đò lên phía mũi. Khi nó vừa bước lên tấm sạp gỗ mui đò thì một cơn gió mạnh ùa đến thổi hất tung chiếc mũ lá ra khỏi đầu nó. Thằng Mon vội huơ tay với thao và ngã xuống mạn đò.
- Anh ơi!
Thằng Mên hoảng hốt buông cây sào lao đến ôm lấy em nó. Nó nghe tiếng trái tim hai anh em nó đập đến váng đầu.
- Mũ rơi xuống sông rồi.
- Cả cái sào chống đò nữa.
Một tiếng sấm nổ như muốn tung con đò lên. Hai đứa bé ôm chặt lấy nhau.
- Mất... mất sào đò rồi hả anh?
- Ờ - Thằng Mên hổn hển. Nếu không có em nó ở đó chắc nó đã òa khóc. Nó tháo chiếc mũ lá của mình đội cho đứa em và nói:
- Phải thả cái mái chèo mà chèo, không đò trôi mất.
Hai đứa trẻ nắm tay nhau lảo đảo đi trên những tấm ván cập kênh trong lòng đò xuống phía mái chèo. Phải rất vất vả chúng mới hạ được mái chèo gỗ to và nặng xuống nước. Hai đứa bé rướn người giữ lấy tay chèo. Mái chèo gặp nước xiết trở nên nặng khủng khiếp. Hai đứa bé không sao quậy nổi mái chèo. Mưa vẫn rầm rập. Dòng sông dâng lên nghiêng ngả.
- Giữ chèo như thế này thì đò mới vào bờ được.
Hai đứa bé mang hết sức lực để giữ mái chèo. Đầu chúng chúi vào nhau.
- Mày khóc đấy à? Thằng Mên hỏi khi thấy em nó sụt sịt.
- Khô... ô... ông.
Trôi đến đoạn sông cách bến đò làng chúng chừng gần hai cây số con đò mới tạt được vào bờ.
- Vào bờ rồi anh ơi. Thằng Mon kêu lên sung sướng.
- Chứ còn sao - Lúc này giọng thằng Mên tỏ vẻ rất người lớn - Nào xuống đò được rồi đấy.
Hai anh em thằng Mên lập cập tụt khỏi đò.
- Mình để đò lại đây hả anh?
- Phải kéo về bến chứ, không thì chết. Bây giờ tao kéo còn mày đẩy.
Thằng Mên quấn lấy cái dây buộc đò vào người gò lưng kéo. Phía sau, thằng Mon lội bì bõm đẩy đò.
- Cái dải cát chưa chìm đâu anh nhỉ?
- Chắc là chưa.
Khi hai đứa bé đưa được con đò trở về chỗ cũ thì trời đã tang tảng sáng. Chúng vội vã tìm cách buộc đò lại. Rồi ngay sau đó, cả hai đứa bé không nói gì và cùng chạy ngược lên đoạn sông đối diện với dải cát.
- Anh có nhìn thấy gì không?
- Tao chưa nhìn thấy, còn tối lắm.
- Thế anh bảo đã ngập hết chưa?
- Để tao nhìn xem? Thằng Mên nói và ngồi thụp xuống. Nó căng mắt, nhìn sát mặt sông.
- Ướt cánh, chim nó có bay được không?
- Mày lội ra đấy mà hỏi?
- Anh ơi, có khi bố dậy rồi đấy.
Sau câu nói của thằng Mon, cả hai đứa trẻ bắt đầu thấy sợ. Từ phía ngôi nhà của chúng ở chân đê vọng lại tiếng người lớn gắt gỏng điều gì đấy. Hai dứa trẻ vẫn căng mắt nhìn ra giữa dòng sông, trời đã sáng.
- Anh ơi, kia kìa, bãi cát. Thằng Mon chợt kêu lên.
- Ừ, đúng rồi. Vẫn chưa ngập hết. Còn bằng cái mũ thôi.
- Anh bảo bầy chim còn ở đó không?
- Không biết. Nhưng bố bảo khi những vừa ngập hết thì chim mới bay lên.
- Sao chúng lại không bay trước?
- Làm sao mà tao biết được.
Khi ánh bình minh đã đủ sáng để soi rõ những hạt mưa trên mặt sông thì cũng là lúc dòng nước khổng lồ nuốt chửng phần còn lại cuối cùng của dải cát. Và trong mắt hai đứa trẻ, một cảnh tượng như huyền thoại hiện ra. Từ mặt nước sông, những cánh chim bé bỏng và ướt át đột ngột bứt khỏi dòng nước khổng lồ bay lên. Hai đứa bé không kêu lên được một tiếng nào. Người chúng như đang ngùn ngụt tỏa hơi nóng.
Suốt từ chiều hôm qua, nước bắt đầu dâng lên nhanh hơn. Nước dâng lên đến đâu, con chim bố và chim mẹ lại dẫn bầy chim non tránh nước lên theo đến đó. Cứ như thế chúng tiến dần đến phần cao nhất của dải cá. Và cứ thế bầy chim non nhảy lò cò trên những đôi chân mảnh dẻ chưa thật cứng cáp và đập cánh suốt đêm. Chim bố và chim mẹ vừa đập cánh theo đàn con vừa dẫn chúng đi. Hình như chúng biết chính xác khi nào thì đàn con chúng mới đủ sức để nâng mình lên khỏi mặt đất một cách đảm bảo. Nếu bầy chim con cất cánh sớm hơn, chúng sẽ bị rơi xuống dòng nước trên đường từ bãi cát vào bờ. Và nếu chúng cất cánh chậm một giây thôi, chúng sẽ bị dòng nước cuốn chìm.
Và bây giờ bầy chim đã bay lên. Mặt trời như lên nhanh hơn mọi ngày và mưa đã đột ngột tạnh hẳn. Bỗng một con chim như đuối sức. Đôi cánh của nó chợt như dừng lại. Nó rơi xuống như một chiếc lá. Con chim mẹ xòe rộng đôi cánh lượn quanh đứa con và kêu lên. Nhưng khi đôi chân mảnh dẻ và run rẩy của con chim non chạm vào mặt sông thì đôi cánh của nó đập một nhịp quyết định. Tấm thân bé bỏng của con chim vụt bứt ra khỏi dòng nước và bay lên cao hơn lần cất cánh đầu tiên ở bãi cát.
Quanh hai đứa bé tất cả vụt im lặng, chỉ có tiếng đập cánh quyết liệt của bầy chim non. Hình như chúng nghe thấy trong ngực mình nhịp đập của những trái tim hối hả nhưng đều đặn. Cuối cùng bầy chim non đã thực hiện xong chuyến bay quan trọng và kỳ vĩ nhất đầu tiên trong đời chúng. Những đôi cánh mỏng manh run rẩy và đầy tự tin của bầy chim đã hạ xuống bên một lùm dứa dại bên bờ sông.
Hai anh em thằng Mên vẫn đứng không nhúc nhích.
Trên gương mặt tái nhợt vì nước mưa của chúng hừng lên ánh ngày. Thằng Mên lặng lẽ quay lại nhìn em nó. Và cả hai đứa bé nhận ra chúng đã khóc từ lúc nào.
- Tại sao mày lại khóc? Thằng Mên hỏi.
- Em không biết, thế anh?
Hai anh em thằng Mên nhìn nhau và cùng bật cười ngượng nghịu. Rồi bỗng cả hai đứa cùng quay người và rướn mình chạy về phía ngôi nhà chúng. Được một đoạn, thằng Mon đứng lại thở và gọi:
- Anh Mên, anh Mên. Đợi em với. Không em ứ chơi với anh nữa.
Làng Chùa, 3-1993
Nguyễn Quang Thiều
Người Cha
Bên trời. Ai đã gọi bên trời, lời thất thanh, đêm bật rách ròng ròng lệ đỏ. Ai đã gọi bên trời, ngựa đã nãn chân bon, hí lên tiếng hí cuối cùng, và mây ngũ vồng đưa ngựa già về miền tịch lặng. Bên trời, thời đại này, người có thể thấy mặt nhau từ xa vạn dậm, địa cầu gần gũi vô cùng, thư từ đến với nhau trong tích tắc, nhưng cũng có tín hiệu đến quá chậm quá tức tửi, quá đau. Tuần qua. Lúc con ở bên này ung dung lái xe trên xa lộ, ngày 8 tiếng trong hảng miệt mài, đêm ngủ yên lành trên nệm dày, trong chăn dạ, thì bên kia Ba lại bỏ đi. Ba nhắm mắt. Ba không còn đợi thằng con, đứa cháu trở về. Và chấm hết.
Bên trời. Buổi sáng đến sở. Ngồi yên. Ba ơi, chưa bao giờ con lại cảm thấy cô đơn như bây giờ. Muốn bỏ mà đi. Muốn thèm một lần mếu máo. Muốn gọi một tiếng ba từ lâu chưa một lần được gọi. Ði đâu bây giờ để khỏi đập đầu, khỏi đau quặn lồng ngực, để khỏi cắn miệng, cắn môi, mà nuốt dòng lệ mặn. Thì ra, bây giờ con mới hiểu thế nào là một nỗi mất mát của một đời người. Cái mất mát sẽ chẳng bao giờ được đền bù hay có thể được tìm trở lại. Dù là một hạt bụi đi nữa. Dù là một sợi tóc đi nữa. Cái mất mát mà ai cũng có một lần chấp nhận. Nhưng mà thưa ba, chiến tranh giờ đã tàn lụi, đâu còn nỗi mất mát nào như những nỗi mất mát như ngày xưa. Người chết giờ đây, dù sao cũng còn được an ủi. Có nghĩa là, trước khi nhắm mắt vẫn còn nhìn lại một lần những người thân yêu. Trừ ba. Thưa ba, bài này, con viết cho ba. Trang giấy này con khóc cho ba. Một hai ngày, hay trăm ngàn ngày, con sẽ nói với ba, thầm thì với ba, kể lể với ba. Cái đau này con xin giữ lấy, cho riêng con. Không ai trong nhóm biết cái mất mát này. Con sẽ dấu, như chẳng bao giờ xin cái ngày phép tang chế thường lệ. Bởi vì, với con, ba không chết. Ba sống mãi. Ở mãi trong đời con.
Từ Quảng Bình, mồ mả ông bà ba bỏ lại. Bỏ lại, như lần đầu theo con tàu sắt ra khơi xuôi về Nam. Ba đã lựa chọn đời sống và tương lai cho con cháu. Nhưng vào ngày ấy, ba vẫn còn có một chỗ để mà đến. Dù những ngày đầu tiên lam lũ. Dù chiếc áo lương đen của ba càng lúc càng mờ phai giữa một thành nội đóng cửa. Dù nghề thầy thuốc của ba càng lúc càng khó khăn tội tình giữa một thế giới Tây y. Ba đã chọn lựa. Ðau đớn mà chọn lựa. Bỏ Quảng Bình, bỏ Ðồng Hới, bỏ mồ mả ông bà, ba lạy ba lạy. Bỏ cơ nghiệp, nhưng cơ nghiệp có gì ở cõi này, trừ tiếng gọi thầm lặng của một kiếp đời: Tự do yêu và ghét. Ngày ấy con còn quá nhỏ để hiểu tại sao người ta dám bỏ cả một phần đời quí báu nhất của con người. Tại sao người ta lại dám chấp nhận đến một nơi vô định, chấp nhận một phần đất lạ lẫm của miền xa. Tại sao người ta lại dám phủi tay, bỏ sạch của cải mồ hôi nước mắt, công lao mà mình đã cố tạo dựng, và cả một nơi chốn yêu dấu nhất của một con người gọi quê hương. Ðêm nay, mấy mươi năm trở lại một thời gian, một không gian cũ, để lại càng hiểu hơn về nỗi đau bầm của một người bỏ quê nhấ Ba chưa một ngày dính líu với bộ máy. Ba cũng chưa một ngày tung hô đả đảo. Ba đứng bên lề: giản dị như chiếc áo lương đen ba mặc suốt năm suốt tháng. Cao quí như nghề thầy thuốc mà ba đã giúp đời, giúp bà con, lâng láng. Và khổ hạnh như một nhà tu. Và ung dung như một vị đồ nho. Và cô độc như người còn lại cuối cùng của một thế giới. Như vậy tại sao ba lại mang thân gà trống tục tục bầy con xuống con tàu hả mồm. Thì ra, ba đã tiên tri được sự thật. Một sự thật mà ngay cả thế hệ của con sau này cũng chẳng bao giờ biết nổi. Và chao ơi, đến khi biết được thì đã quá muộn màng.
Những ngày đầu tiên ở Huế, thì quá lam lũ. Huế có những ngày mưa dầm, có những buổi trời lạnh căm căm, và gió thì cắt bầm da thịt. Và ba đã đứng ở giữa Huế, đi ở giữa Huế, chống đỡ cùng đời sống ở Huế. Vẫn chiếc áo lương đen bạc màu. Vẫn chiếc áo tơi nylon màu sậm rêu đã rách. Và vẫn chiếc dù đen. Ba đã không những chống cự cùng cơm áo mà còn chống cự cùng cái nền văn minh đang mỗi ngày một lấn áp xã hội. Nhưng nếu cơm áo đã làm ba lao đao lận đận, thì cái nền văn minh kia đã làm ba cô độc hàng vạn lần. Ở đâu người ta cũng quay mặt. Ở đâu, khói bụi, và sản phẩm của những luồng gió từ phương Tây vẫn cuốn lốc, vẫn vần vũ. Ba đã đi tìm lại những người thân chủ cũ. Mong đợi họ để ba bấm tay xem lại kinh mạch, để ba kê toa thuốc, và cuối cùng là ít tiền công. Ba cũng đã đi qua những phòng mạch bác sĩ chen chúc người. Ba nhìn người ta đang bị đầu độc bởi khói xe, dầu mỡ, nước đá, trụ sinh. Và càng đau hơn nữa, ba phải nhìn những trang giấy kinh điển, những giòng chữ hiền nhân, những suy nghĩ vạn đại từ từ bay cuốn hay vùi dập dưới bước chân người không thương tiếc. Khi ấy ba chỉ biết cúi đầu, lưng khom xuống, và lượm và nhặt. Khi ấy ba buồn bã nhìn về phía Ðại Nội, trường Quốc Tử Giám, nơi mà ngày xưa ba đã từng học những giòng chữ của thánh hiền. Huế vào những ngày đầu tiên, mây thì màu chì, và sũng nước. Những con quạ đen in bóng trên thành quách cũ, từ Thượng Tứ qua Ðông Ba. Huế vào những ngày đầu tiên, đêm thấp thoáng những ngọn đèn lu mờ giữa dòng sông Hương, và tiếng hò Nam Ai thỉnh thoảng cất lên ủ dột. Huế, học trò Ðồng Khánh, Quốc Học, bãi học qua cầu như cả một đàn bướm. Huế có đài phát thanh bên cầu, còn nghe âm vang tiếng đôi song ca Ngọc Cẩm và Nguyễn hữu Thiết. Huế có tiếng rao hàng rong não nuột trong bóng tối âm u từ đường Trương Ðịnh về Hàng Ðoát. Và Huế có một mình ba, đứng lại, còn lại một mình. Nhưng ba không bao giờ chịu làm kẻ thua cuộc. Ba vẫn mặc chiếc áo lương đen, mang chiếc dù đen, chiếc áo tơi màu rêu sậm, và đi bộ, đi mãi, đi miết. Từ Morin về Ðập Ðá. Từ Morin lên Phủ Cam. Từ Morin qua cầu Trường Tiền, qua Ðông Ba, Thượng Tứ, vào Hồ Tịnh Tâm, ngược lên Bến Ngự. Dáng ba nhỏ, gầy. Hai chân ba khẳng khiu, vai hơi khom xuống. Ðôi khi một chiếc xe phóng qua vũng nước, và cả người ba bị nước bắn tung tóe. Ðôi khi những con chó hung dữ sẵn sàng nhảy bổ vào người ba, nếu không nhờ cây dù bên người, chắc ba sẽ phải bỏ cuộc.
Rồi ba trở về cùng con. Mái nhà tôn nào bên đường Trương Ðịnh, nền nhà đất thịt, chiếc giường tre nương tựa cơ hàn. Những đêm mùa đông năm ấy, Huế trở trời, lạnh căm căm da thịt. Vì lạ lẫm, và vì hơi lạnh buốt bốc lên từ nền đất, thấm qua tấm chiếu, qua cả chiếc mền dạ nhà binh, khiến con không thể nào ngủ được. Và ba cũng vậy, nằm bên con, mắt m Chúng ta đã không thể tưởng tượng có một ngày chúng ta phải nương thân tại nhà của một người khác, trong khi ở quê nhà, chúng ta có cả ngôi nhà gạch khang trang, có nền xi măng, giường rộng, chiếu hoa. Chúng ta không thể tưởng tượng một ngày ba dẫn con đi tìm quán ăn nghèo nàn bên chợ đông ba, để nghe mệ chủ quán bĩu môi nói trắng trợn: Quán tôi dơ bẩn, ông nên tìm chỗ khác, chỉ vì ba cẩn thận lấy tờ giấy mang trong mình lau đôi đũa, cái chén. Mắt ba đã mở trong đêm, nhìn lên chiếc mùng, hay đang trở về cùng quá kh Với ba, con biết, lệ thầm ấy là quá khứ. Và với con, lệ thầm ấy là mền không đủ ấm, là khoảng đêm dày dặc, là gió bên ngoài hú từng cơn, đập vào mái tôn kêu âm ỉ, là cả thân thể co rúm lại trước cái lạnh bốc xuống từ mái tôn, bốc lên từ đất... Phải, với ba, lệ thầm ấy là quá kh Con người ba đã nặng trĩu quá kh Ngay ở hiện tại này, ba cũng là ngọn đèn của quá kh Ngày xưa, mỗi lần ba ngủ không được, ba vẫn trở dậy pha trà và đọc sách thánh hiền, hay ngâm những vần thơ cổ. Bây giờ không ai cho phép ba trở dậy, để ngồi độc ẩm cùng bóng đêm. Người ta đang ngủ. Nếu có thức chăng là những hồn ma từ những thành quách rêu rong. Chúng thức để mà khóc cho một thời đại. Nhưng dù sao, chúng vẫn là hồn ma. Còn ba, ba lại là con người thật. So với chúng, ai khổ hơn ai? Vâng, ai khổ hơn ai. Dù sao những hồn ma kia cũng vẫn còn bầu bạn. Còn ba, một người còn sót lại cuối cùng, quá chừng lẽ loi, và cô độc. Nếu có bạn chăng là con quạ đen trên nhánh cây phượng gầy bên Thành Nội hay tiếng dế khóc than dưới mấy tầng gạch cổ.
Từ một xóm nghèo bên Morin, ba lại dẫn con đi nương nhờ tại Ðập Ðá, rồi qua Bến Ngự, rồi về Phủ Cam, rồi qua Thành Nội... Cơm áo cuối cùng cũng xong. Những bà chủ nhà nghiệt ngã cuối cùng cũng xong. Những dốc lên dốc xuống cuối cùng cũng xong. Những ngày hừng hực nóng và những đêm buốt tận xương tủy cuối cùng cũng xong. Dòng sông Hương vẫn xanh lơ. Ðêm Nam Ai, Nam Bình vẫn bềnh bồng trên những chuyến đò côi cút. Người di cư bắt đầu hòa nhập vào cuộc sống mới. Ông Bá đã trở thành một người thân tín của chế độ, và được giao một nhiệm vụ cao cấp của đảng chính quyền. Anh Trinh được lên Trung sĩ nhất. Bác Cấn được phong trung sĩ nhất hậu cần. Ông Phán lên làm Phó Tỉnh trưởng hành chánh. Bây giờ những người di cư mới tìm lại ba như ngày xưa họ đã tìm đến. Thân chủ của ba đã không còn bao gồm trong thành phố Huế mà đã được bung ra đến Ðà Nẵng, Hội An. Người ta cuối cùng đã tìm đến một vị thầy sau bao năm ngoảnh mặt. Và trong lòng chiếc xe hàng Phi Long, Tiến Lực màu vàng da cam ấy, ba vượt đèo Hải Vân, xuống bến xe, và lại đi bộ, đi hoài đi mãi. Áo lương đen, chiếc mủ dạ, chiếc dù đen. Và cái túi áo mỗi lúc mỗi đầy những trang giấy thánh hiền. Phố lầu cao che mái ra bờ lề, bóng ba lẽ loi giữa chợ người. Ngày mưa cũng như ngày nắng. Ngày lạnh căm căm cũng như ngày lửa oi nồng, một mình đông tay nam bắc, bước tới, đi tới. Ðể làm gì. Hai trăm đồng học phí một tháng cho lớp Ðệ Ngũ của trường Việt Hương. Ba trăm đồng học phí cho lớp Ðệ Tứ của trường Bán Công, để con tiếp tục đến trường. Và đêm đêm, ba ngồi viết hàng trăm verbe qui tắc hay bất qui tắc, những demander à hay demander pour, thành ngữ, văn phạm trên cuốn sổ tay bìa đồ Ba hãnh diện nhắc lại ngày ba cứu dân làng thoát khỏi lần bố ráp của Tây bởi vì ba là người nói và viết được tiếng Pháp. "Ông quan ba đọc xong thơ của ba, bèn kêu ba tới và bắt tay kêu ba là monsieur". Ba nói về cuốn tự điển Larousse dày cả ngàn trang mà ba thuộc lòng. Người ta thường nói về một người mẹ như một hình ảnh yêu quí nhất, tôn thờ nhất, dịu hiền nhất, nhưng với ba, cho con được ngừng lại một giây, một phút, để cho nước mắt cứ tuôn, để đôi mắt con mờ nhạt, để hiểu rằng con được tự hào có một người cha còn tuyệt vời hơn cả một người mẹ nữa. Có lần con thấy con gà trống dẫn đàn con đi kiếm mồi, con vật sao cô dơn quâ Nó có mồng, cựa, bộ lông sặc sở, uy dũng hiên ngang làm sao, thế mà cứ mỗi lần tìm được mồi, nó lại kêu tục tục, gọi đàn con đến... Cũng như ba. Tục tục hoài. Hết tay này quạt lại đến tay kia quạt trong những đêm mùa hè dưới mái nhà tôn. Chiếc mền đắp lại trên người con, trong đêm giá buốt. Và đôi khi, giữa đêm, con còn nghe tiếng ba nằm m Ú Một ác mộng cũng nên. Tại sao ba không bao giờ kể cho con nghe về cái ác mộng ấy để con hiểu thế nào là lịch sử, những biến cố của đất nước hay cái thảm kịch của chính ba?
Phải, ba đã dấu con. Ba đã dấu về một người đàn bà mà ba đã cưới về làm vợ, về một người nào mà lẽ ra con còn được gọi cái tiếng mẹ như mọi người. Ba đã dấu, chẳng bao giờ nhắc nhở, hờn giận. Nhưng ba không thể dấu nỗi những tiếng mớ u uẩn trong đêm. Rằng, nỗi buồn câm nín mà ba mang theo trên hai vai gầy guộc của một ông đồ, một người đàn ông, một người cha hẩm hiu đã trở thành tiếng ú ớ buồn thảm.
Cuối cùng, ba vẫn là người để người ta tìm đến, sau khi bệnh tình của họ, và người thân, bác sĩ đã bó tay. Vợ họ hiếm muộn con cái. Con trai họ mộng tinh di tinh trầm trọng. Có người bị mất ngủ kinh niên. Và mỗi lần kê toa thuốc xong, ba không bao giờ quên một câu dặn dò: Nhớ là đừng bao giờ dùng nước đâ Nước đá hàn, uống vào sẽ hại không ít thì nhiều. Ba đã dặn bệnh nhân của ba như vậy là vì lương tâm của vị thầy thuốc hay là vì cái nền văn minh kỹ thuật đang cuốc lốc mọi thứ cổ truyền mà ba tìm cách chối bỏ? Với con, cả hai. Ba vui mừng khi thấy con bệnh mà ba chữa trị đã bình phục, nhưng ba đau khổ không ít khi nhìn cốc nước đá lạnh mà người ta đã mời ba. Ba đã cố giải thích với họ về một nền văn minh chết người, đang tìm cách làm hủy diệt loài người. Tại sao những người xưa sống lâu cả trăm tuổi? Tại sao người ta mắc bệnh tâm thần ngày càng nhiều. Thuốc trụ sinh là gì chẳng qua là nấm? Và cả bao nhiêu loại thuốc men khác cũng bắt nguồn từ cây cỏ? Ðôi khi gặp một vài người tri kỷ, ba lại nói về cái độc hại và phá sản của một nền văn hóa ngoại lai. Nó làm băng hoại gia đình và xã hội. Ba trách thế hệ trẻ tuổi sa đọa, quên hết cội nguồn, thương mây khóc gió, không còn biết trọng thánh hiền.
Nhưng ba không biết, con đang ở trong thế hệ trẻ tuổi mà ba đã kết án. Ba không biết tuổi trẻ của con đang nổi loạn. Tuổi trẻ của con đầy những xâu xé, giành giựt, bị hành hạ bởi ý thức. Qua sách vở con đọc, qua lịch sử mà con đã sống và lớn lên để thừa hưởng, qua xứ Huế mà con đã cô đơn, qua cha mẹ phân ly, qua tình yêu mà con đã vấp phải, qua mấy bức tường thành mà con bị giam hãm. Ý thức đẩy con xa ba, và càng xa, ba càng buồn vì con hơn ai hết. Ba muốn con lập thân, có nghĩa là đậu bằng cấp, có chức vụ để người đời trọng nể. Nhưng con thì lại khác, ngồi trong thư viện, đọc trang sách của Sartre mà lạc loài, mà hư vô, mà nôn mửa. Ðời là gì. Chiến tranh ở đâu đó, trên những trang nhật báo mỗi ngày. Con đọc Tội ác và Hình Phạt mà tìm hình bóng con qua người trẻ tuổi. Tại sao? Ðầu óc con muốn nổ bùng. Con lê dép Nhật, để tóc dài, như thách đố cùng Huế, cùng xã hội. Con bỏ lại sách vở, bằng cấp ở phía sau, để coi đời là áng mây trắng. Con đuổi theo áng mây ảo tưởng. Con coi đời là cuộc chơi. Chẳng cần thắc mắc. Khi người ta bắn con, viên đạn phá toạt da thịt con, những mảnh lựu đạn cắm sâu trong thịt con, con vẫn nhìn lên bầu trời, không oán trách, giận hờn hay đổ tội. Rồi ở đâu, trong cõi này, những áng mây sẽ dịu dàng đậu lại, nương nhờ nhau, che chở nhau. Rồi ở đâu, cũng có ngày người Nam ôm kẻ Bắc, người Bắc ôm kẻ Nam...
Nhưng cuối cùng, con đã hiểu. Người thật thà không thể sống chung với ma quỉ.
Thôi thì đành ra đi. Ở Việt Nam đâu còn gì nữa để mà nói về con người, về tình tự, về mây trắng. Nhưng khi bỏ đi, thì phải bỏ những gì yêu dấu nhất trong đời. Bao nhiêu năm trong nước con cứ hẹn lần hồi một ngày về phép thăm ba, thăm Huế, để nói với ba rằng con vẫn còn bình an, và để nhìn lên lư nhang đầy ngập tro và trăm ngàn que nhang tàn chen chúc, nhưng cuối cùng chỉ là một lời vỗ về hoang tưởng. Cháu nội của ba vẫn chưa được thấy mặt nội. Giấc mơ nào về quê, để ba nhìn cháu nội đã vỡ vụn tan tành.
Và giờ đây, con lại xa ba thêm một nửa vòng trái đất. Còn phải lại thêm một lần nếm mùi bỏ xứ ra đi. Lại thêm một lần, bóp còi cho tiếng còi lạc vào chốn mịt mùng. Lại thêm một lần, những bánh xe cứ lăn hoài không biết ngày nào trở về cố hương. Ba thì lại xa. Nói gì về một lời tiên tri cũ để chợt giật mình. Thì ra tóc con cũng đã nhuốm bạc rồi. Tin nhà cuối cùng cũng phải đến như qui luật của vủ trụ nhân sinh. Con đang nhắm mắt đây, bởi vì, con biết Ðất Trời Tiên Phật đang bao bọc ba, dìu dẫn ba, và chưa chắc, ba đang có mặt tại chốn này. Con nhắm mắt, giòng lệ nóng tuôn trào, không ai biết, mà chẳng cần ai biết. Bởi vì chỉ có ba biết con và con biết ba là đủ. Con biết có một người can đảm nhất trên đời, đạo hạnh nhất trên đời, và cũng buồn bã nhất trên đời. Tháng ba hay tháng chạp, năm này hay năm khác, đêm xứ Mỹ hay ngày xứ Mỹ, qua thị trấn này hay về thị trấn khác, những con đường hun hút mênh mông rồi cũng cuối cùng về lại một điểm. Cái điểm đó, có ba mái tóc bạc phơ, bộ áo lụa trắng, đôi mắt mù lòa, hun hút trong dòng thiên cổ.
Trần Hoài Thư